Kỷ niệm 11 năm ngày mất của thi sĩ triết gia Phạm Công Thiện (8. 3. 2011 - 8.3 2022) chúng tôi đăng bài viết của du sĩ Tâm Nhiên.
Có những con người đến rồi đi qua mặt đất, trần gian này như một cơn giông tố bão bùng, sấm sét, gây chấn động kinh hồn, làm bùng vỡ một điều chi kỳ vĩ, tinh khôi trên bầu trời tâm thức nhân loại, Phạm Công Thiện là một con người độc đáo như vậy.
Đấy là một giáo sư, tư tưởng gia, nhà văn, nghệ sỹ hay một thi sỹ kỳ tuyệt thiên tài, như đại văn hào Henry Miller từ Hoa Kỳ đã phát biểu trong một thư gởi Phạm Công Thiện, đề ngày 8.8.1966:
“Mới ở tuổi 25 mà là khoa trưởng văn chương ở một đại học nổi tiếng trong xứ sở của ông, quả nhiên là thiên tài. Điều đó thật phi thường quá, quả thật khó tin, thật như chuyện huyền thoại.”
Đấy là một giáo sư, tư tưởng gia, nhà văn, nghệ sỹ hay một thi sỹ kỳ tuyệt thiên tài, như đại văn hào Henry Miller từ Hoa Kỳ đã phát biểu trong một thư gởi Phạm Công Thiện, đề ngày 8.8.1966:
“Mới ở tuổi 25 mà là khoa trưởng văn chương ở một đại học nổi tiếng trong xứ sở của ông, quả nhiên là thiên tài. Điều đó thật phi thường quá, quả thật khó tin, thật như chuyện huyền thoại.”
Đúng vậy, một con người đã đến và đi như huyền thoại giữa cuộc sống thiên diễn, đầy biến động trên quê hương đất nước Việt Nam.
Làm sao nói về con người kỳ diệu này? Vào một chiều tháng 6, bắt đầu mùa hạ năm 1941, Phạm Công Thiện ra đời bên dòng sông thơ mộng Cửu Long.
Làm sao nói về con người kỳ diệu này? Vào một chiều tháng 6, bắt đầu mùa hạ năm 1941, Phạm Công Thiện ra đời bên dòng sông thơ mộng Cửu Long.
Dòng sông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, ngút ngàn chảy xuống dọc ven bờ phố thị Mỹ Tho, một thị xã nhỏ nhắn, lặng lẽ hiền hòa ở miền Nam.
Thi sỹ lớn lên từ đó, từ thuở nhỏ vốn bẩm sinh thông minh xuất chúng, học một biết mười, đến độ thông thạo nhiều ngôn ngữ, đọc hàng đống sách đủ loại Đông Tây kim cổ…
Suốt ngày đêm cứ mặc sức mơ mộng, rong chơi và tha hồ tắm sông lội nước, nằm ngắm mây trời bay lãng đãng, xa xôi…
Rồi bất thình lình, đột ngột một hôm vụt đứng dậy, xuất hiện trên văn đàn Việt Nam như một tài năng kiệt xuất, lỗi lạc, biết nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hán, Phạn, Pali, Tây Tạng, Tây Ban Nha…
Từ thuở mới 13, 14 tuổi, chàng đã có những bài tiểu luận tham gia, cộng tác với các tạp chí Phổ Thông, Dân Ta, Bông Lúa, Giữ Thơm Quê Mẹ, Văn, Văn Nghệ, Bách Khoa…
Những bài viết triết lý, thi ca, viết về các nhà thơ, nhà văn trên thế giới, khiến Nguyễn Vỹ (chủ bút tạp chí Phổ Thông, Dân Ta) và học giả uy tín Nguyễn Hiến Lê đều nể phục, xem là thần đồng, một hiện tượng vô cùng hy hữu giữa thế kỷ XX.
Năm 1957, mới 16 tuổi đã xuất bản Tự điển Anh ngữ tinh âm, 20 tuổi viết Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, 23 tuổi viết Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma, 25, 26 tuổi viết Hố thẳm tư tưởng, Im lặng hố Thẳm, Ý thức bùng vỡ, Bay đi những cơn mưa phùn, Trời tháng Tư, Ngày sinh của Rắn, Mặt trời không bao giờ có thực, Nikos Kazantzaki, Rainer Maria Rilke, Henry Miller và dịch thuật từ tiếng Anh, tiếng Đức những tác giả vĩ đại Krishnamurti, Nietzsche, Heidegger, Rainer Maria Rilke, Henry Miller, Hoelderlin…làm chấn động toàn thể giới văn nghệ sỹ, trí thức Sài Gòn, miền Nam thời bấy giờ.
Thời kỳ ấy, từ 1966 đến 1970, mới 25 tuổi, Phạm Công Thiện đã làm Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, đồng thời là giám đốc soạn thảo Chương trình giảng dạy cho tất cả các phân khoa Xã hội Nhân văn và chủ biên tạp chí Tư Tưởng đã khơi nguồn mạch sáng tạo, trào dâng chất ngất cho giới văn nghệ.
Mở ra thể điệu phiêu bồng trên cung bậc văn chương, tư tưởng, thiền học, triết lý, thi ca bát ngát diệu thường.
Trước đó, nhà thơ cũng đã từng làm những chuyến giang hồ tứ chiếng, xách túi thơ bầu rượu ngao du sơn thủy qua New York, California, Paris, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Ba Tư, Ý Đại Lợi rồi, từng diện kiến, tiếp xúc với những nhân vật nổi tiếng, lừng lẫy trên thế giới như Krishnamurti ở Paris, Henry Miller ở Los Angeles.
Văn chương, nghệ thuật, triết lý, thi ca, những tác giả kỳ cựu, những bậc cao thủ thời đó đều tập trung về Đại học Vạn Hạnh, tạo nên một bầu không khí sinh động vô vàn.
Đang là thần tượng của đám sinh viên các Đại học Vạn Hạnh, Văn Khoa, Sài Gòn, Huế, Đà Lạt thì đùng một cái, Phạm Công Thiện bỏ ngang chức Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, lên đường viễn phương hành.
Làm cuộc ra đi vô mục đích, nhảy tung vào Hố thẳm tư tưởng không đáy bồng bềnh, lênh đênh qua tận bên kia bờ đại dương vào năm 29 tuổi, tức năm 1970.
Đó là lúc Ý thức bùng vỡ làm thay đổi cả một nếp sống bình sinh, hay cũng là một thái độ phản kháng cuộc chiến tranh tương tàn tương sát, đang diễn ra ở xứ sở Việt Nam đến độ khốc liệt, kinh hoàng, khủng khiếp nhất trên khắp hai miền Nam Bắc phân tranh.
Cuộc nội chiến làm sụp đổ tan tành, tan hoang hết mọi sự trong tiêu điều, điêu linh, trầm thống...
Sống trong thời buổi loạn ly, bị khổn vây bầu không khí ngột ngạt như vậy, một hồn thơ sâu thẳm, nhạy cảm như chàng làm sao không rơi vào trạng thái cô đơn?
Cô đơn rờn lạnh hiu hắt, lặng buốt cả tim hồn thổn thức, cũng như bao thanh niên khác, chàng tìm đến tình yêu cho khuây khỏa bớt u sầu.
Yêu nhau cảm động dường nào để cho lòng xao xuyến, xốn xang, chan chứa một điều chi da diết, trong tiếng hát liêu trai của nàng ca sỹ yếu gầy.
Hình ảnh người ca sỹ yếu gầy ấy đã đi vào thi ca chàng một cách trữ tình, lãng mạn giữa trầm trầm, mê mê bóng sương nhòa tha thiết trong hồn lệ rưng rưng:
Rồi bất thình lình, đột ngột một hôm vụt đứng dậy, xuất hiện trên văn đàn Việt Nam như một tài năng kiệt xuất, lỗi lạc, biết nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hán, Phạn, Pali, Tây Tạng, Tây Ban Nha…
Từ thuở mới 13, 14 tuổi, chàng đã có những bài tiểu luận tham gia, cộng tác với các tạp chí Phổ Thông, Dân Ta, Bông Lúa, Giữ Thơm Quê Mẹ, Văn, Văn Nghệ, Bách Khoa…
Những bài viết triết lý, thi ca, viết về các nhà thơ, nhà văn trên thế giới, khiến Nguyễn Vỹ (chủ bút tạp chí Phổ Thông, Dân Ta) và học giả uy tín Nguyễn Hiến Lê đều nể phục, xem là thần đồng, một hiện tượng vô cùng hy hữu giữa thế kỷ XX.
Thời kỳ ấy, từ 1966 đến 1970, mới 25 tuổi, Phạm Công Thiện đã làm Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, đồng thời là giám đốc soạn thảo Chương trình giảng dạy cho tất cả các phân khoa Xã hội Nhân văn và chủ biên tạp chí Tư Tưởng đã khơi nguồn mạch sáng tạo, trào dâng chất ngất cho giới văn nghệ.
Mở ra thể điệu phiêu bồng trên cung bậc văn chương, tư tưởng, thiền học, triết lý, thi ca bát ngát diệu thường.
Trước đó, nhà thơ cũng đã từng làm những chuyến giang hồ tứ chiếng, xách túi thơ bầu rượu ngao du sơn thủy qua New York, California, Paris, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Ba Tư, Ý Đại Lợi rồi, từng diện kiến, tiếp xúc với những nhân vật nổi tiếng, lừng lẫy trên thế giới như Krishnamurti ở Paris, Henry Miller ở Los Angeles.
Văn chương, nghệ thuật, triết lý, thi ca, những tác giả kỳ cựu, những bậc cao thủ thời đó đều tập trung về Đại học Vạn Hạnh, tạo nên một bầu không khí sinh động vô vàn.
Đang là thần tượng của đám sinh viên các Đại học Vạn Hạnh, Văn Khoa, Sài Gòn, Huế, Đà Lạt thì đùng một cái, Phạm Công Thiện bỏ ngang chức Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, lên đường viễn phương hành.
Làm cuộc ra đi vô mục đích, nhảy tung vào Hố thẳm tư tưởng không đáy bồng bềnh, lênh đênh qua tận bên kia bờ đại dương vào năm 29 tuổi, tức năm 1970.
Đó là lúc Ý thức bùng vỡ làm thay đổi cả một nếp sống bình sinh, hay cũng là một thái độ phản kháng cuộc chiến tranh tương tàn tương sát, đang diễn ra ở xứ sở Việt Nam đến độ khốc liệt, kinh hoàng, khủng khiếp nhất trên khắp hai miền Nam Bắc phân tranh.
Cuộc nội chiến làm sụp đổ tan tành, tan hoang hết mọi sự trong tiêu điều, điêu linh, trầm thống...
Sống trong thời buổi loạn ly, bị khổn vây bầu không khí ngột ngạt như vậy, một hồn thơ sâu thẳm, nhạy cảm như chàng làm sao không rơi vào trạng thái cô đơn?
Cô đơn rờn lạnh hiu hắt, lặng buốt cả tim hồn thổn thức, cũng như bao thanh niên khác, chàng tìm đến tình yêu cho khuây khỏa bớt u sầu.
Yêu nhau cảm động dường nào để cho lòng xao xuyến, xốn xang, chan chứa một điều chi da diết, trong tiếng hát liêu trai của nàng ca sỹ yếu gầy.
Hình ảnh người ca sỹ yếu gầy ấy đã đi vào thi ca chàng một cách trữ tình, lãng mạn giữa trầm trầm, mê mê bóng sương nhòa tha thiết trong hồn lệ rưng rưng:
Cô đơn về trắng sương rừngAnh nghe tiếng hát hoang đường nửa đêmKhuya buồn tủi nhục môi emMưa run lặng lẽ bên thềm bơ vơTiếng ru vàng xuống đôi bờHoang vu anh đứng đợi chờ chim kêuTay gầy ôm chặt tình yêuAnh về phố gục những chiều hư vôĐời đi trên những nấm mồĐau thương em hát cơ hồ khăn tangPhố chiều thả bước lang thangNhư con sông nhỏ mơ màng biển xanhNửa đêm khói đốt đời anhYêu em câm lặng khô cành thu đôngLời em như một dòng sôngĐôi bờ anh đứng giữa lòng hoa niênMưa chiều nước chảy triền miênMột con chim dại lạc miền hoang lươngVề đâu thương những con đườngLê thê phố cũ nghe buồn hè xưa
Hè xưa phố cũ tuy buồn bã mà vẫn có một vẻ đẹp não nùng của thứ tình yêu diêu mang, lãng đãng.
Chàng thi sỹ đa tình đa cảm, trót vương mang dáng dấp nàng thơ gầy guộc, có đôi mắt sầu mộng, u huyền nào đó trên cao nguyên, nghi ngút sương mù bay trắng cả rừng thông.
Cũng có thể, từ bên trời Tây phương nhớ về Đông phương với bao niềm xót xa không bờ bến.
Bềnh bồng, phiêu phưỡng trong tâm trạng tương tư theo từng cơn gió thổi từ đồi tây sang đồi đông, từ đồi thông qua đồi thu, suốt mười năm trời mơ mộng, nhớ thương, tưởng vọng trong rưng rức ngậm ngùi:
Chàng thi sỹ đa tình đa cảm, trót vương mang dáng dấp nàng thơ gầy guộc, có đôi mắt sầu mộng, u huyền nào đó trên cao nguyên, nghi ngút sương mù bay trắng cả rừng thông.
Cũng có thể, từ bên trời Tây phương nhớ về Đông phương với bao niềm xót xa không bờ bến.
Bềnh bồng, phiêu phưỡng trong tâm trạng tương tư theo từng cơn gió thổi từ đồi tây sang đồi đông, từ đồi thông qua đồi thu, suốt mười năm trời mơ mộng, nhớ thương, tưởng vọng trong rưng rức ngậm ngùi:
Mười năm qua gió thổi đồi tâyTôi long đong theo bóng chim gầyMột sớm em về theo giấc ngủBông trời bay trắng cả rừng câyGió thổi đồi tây hay đồi đôngHiu hắt quê hương bến cỏ hồngTrong mơ em vẫn còn bên cửaTôi đứng trên đồi mây trổ bôngGió thổi đồi thu qua đồi thôngMưa hạ ly hương nước ngược dòngTôi đau trong tiếng gà xơ xácMột sớm bông hồng nở cửa đông
Dòng thơ phơ phất trôi đi, dĩ nhiên là ẩn ngữ chập chùng, bóng bẩy…Thi sỹ thả hồn mơ mộng, sầu nhớ trong niềm đau nhói buốt chia ly, xa cách người yêu dấu cũ mơ màng?
Bản sầu ca lãng mạn đẹp mơ hồ trong giọng hát vô thanh, mặc sức cho chúng ta tưởng tượng, hiểu ý thơ theo mỗi cách riêng biệt của mình.
Phải chăng, đó là cõi thơ huyền mộng, hư ảo, tự thuở nào xa ngút ở trên rừng Phi Nôm, Đà Lạt hay dưới vùng biển Vạn Giã, Nha Trang?
Bỗng nhớ một chiều mưa thấp thoáng tần ngần, thi nhân rời bãi biển cát trắng, gõ nhịp bước đơn hành, đi về con đường quanh sườn đồi cao Hải Đức, bỗng sực thấy cây khế bừng rộ hoa tim tím bên triền dốc đá hoang thưa:
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộnCây khế đồi cao trổ hết bông
Hoa nở rồi tàn cũng như những nàng con gái mộng mơ đến rồi đi. Tuy vậy, vẫn còn phảng phất những làn hương quyến rũ mị kỳ cứ ám ảnh chập chờn thoang thoảng mãi huyền mộng thơm tho trên suối tóc dịu mềm:
Đêm tối nào ru mái tóc emMộng gì lạ thấy quá êm đềmEm nằm thở nhẹ như bươm bườmHai má thơm nồng lại nóng thêmAnh ngủ dịu hiền trong giấc mơRồi em vờ ngủ rất thờ ơChờ khuya em khẽ bàn tay mộngChoàng nhẹ vai anh bao phím tơCon bướm xoay mòng bay đi đâuMùa đông ôm nhau trên thang cầuEm ngồi anh hát cười vang xómBồ câu đập cánh bên kia lầu
Bồ câu, bươm bướm, chim chóc bay lượn giữa trời thơ đất mộng vàng xanh óng ả những cụm tơ trời long lanh lấp lánh quá đỗi lung linh:
Tình anh lồng lộngChim bay rợp đồngĐàn trắng căng buồmThấp thoáng bên sôngMột con sông dàiSông Hoài sông Hoài
Sông Hoài ở đây không phải là sông Hoài ở phố cổ Hội An mà chính là nàng thơ Lê Khắc Thanh Hoài, một tiên nữ giáng trần, gái Huế, một nhạc sĩ dương cầm, viết văn làm thơ, đã tự nguyện sống gần gũi với chàng như vợ chồng suốt hơn mười năm trời ở Paris. Đó là cuộc tình lâm ly đầy tình tiết ly kỳ hấp dẫn mà Thanh Hoài đã viết lại thành cuốn tiểu thuyết Chuyện một người đàn bà… năm con.
Chúng ta hãy lắng nghe nàng thơ nói về Phạm Công Thiện:
“Chàng tìm đến tình yêu cũng như chàng tìm đến tôn giáo. Tình yêu cũng phải thần thánh và linh thiêng. Như giọt nước cam lồ tưới tẩm làm tan biến khổ não ưu phiền. Như sức mạnh của thần chú xô người qua bên kia bờ giải thoát. Tình yêu cũng phải có mãnh lực đó. Mãnh lực chuyển hóa và thăng hoa.”
Gần kết thúc cuốn truyện dài, chàng nói với nàng:
“Ở một nơi chốn hỗn loạn, ở nơi tận cùng của khổ đau và tuyệt vọng mà tiếng nhạc của em vẫn có thể vang lên những âm thanh dịu dàng đằm thắm, bay bổng cao vút tận chân trời, từ cái điều Không Thể mà vẫn Có Thể, hãy gọi đó là Giai Điệu Của Cái Điều Không Thể. Từ đó, cố vượt ra ngoài tầm nhìn và sự hiểu biết cạn cợt của chính mình. Điều mình thấy như vậy, biết như vậy nhưng không chắc đã là như vậy. Hãy có cái nhìn và sự hiểu biết từ cái điều Không Thể mà Có Thể đó.” ****
Cho nên dù rất mặn nồng gắn bó nhưng rồi cũng ngậm ngùi chia tay trong lặng lẽ âm thầm. Đã qua rồi thời gian hoa mộng ấy, kể từ năm 1983, chàng thi sĩ tự ý khước từ danh vọng cao sang, bước xuống giảng đường đại học Toulouse, từ bỏ kinh thành Paris hoa lệ để bay vèo qua Hoa Kỳ, tự nguyện dấn thân vào phương trời vô sở trú, vô sở cầu, vô sở đắc, chẳng thể nghĩ bàn. Chàng lại tiếp tục đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất. Đường của thơ là những nẻo đường ngược gió, là quán trọ, hiên chùa tá túc qua đêm. Đêm và ngày trôi qua như giấc mộng ban đầu. Thấu thị nhân sinh, tình yêu đã thăng hoa thành tình thương vô hạn trổ bừng đóa Bồ đề tâm thâm cảm diệu thường.
Trước ngày lên đường viễn phương hành, thi nhân leo lên đồi Hải Đức, Nha Trang (nơi ngày xưa vào năm 1963, chàng chán ngán cõi đời đi xuất gia, làm đệ tử thầy Trí Thủ ở đó, với pháp danh Nguyên Tánh) ngồi một mình trên đồi cao, nhìn xuống biển cả muôn trùng vắng lặng, lắng hồn cô đơn, tịch mịch để nghe vọng về bao nỗi đời ly tán, đớn đau, bàng hoàng trong rưng rưng, nhức nhối:
Hồi chuông chùa vọng luân hồiChim chiền chiện hót ngang trời đau thươngTrùng dương nằm đợi vô thườngĐồi cao bạt gió hai đường âm u…
Âm u hai đường, đông tây đôi ngã thê lương, còn chi đâu mà nói nữa. Thôi thì cánh chim ngàn cứ tung bay cho hết bầu trời tính mệnh bao la của mình.
“Bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, rộng lượng và không hy vọng.”
Văn hào Nikos Kazantzaki đã nói như vậy, cũng như triết gia Heidegger làm những câu thơ như âm thầm khích lệ thi sỹ lên đường:
“Bước tới và chịu đựng. Sự thất bại và câu hỏi. Trung thành với lối đi duy nhất của mi.”
Thi sỹ Phạm Công Thiện đã cảm nhận chân thiết lời thơ đó, nên hùng tâm tráng khí, im lặng thực hiện một cách mãnh liệt cuộc lữ phi thường, khởi sự tấu khúc độc hành ca trên lộ trình hướng về hố thẳm uyên mặc hay uyên nguyên khơi mở.
Buông tay vào hố thẳm, mở ra những phương trời hoằng viễn, uyên tư như Rimbaud, Henry Miller, Nietzsche, như Hoelderlin, Whitman, Blaise Cendras, như Nerval, Van Gogh, William Blake, như Emerson, Faulkner, Dostoievsky…những đồng thanh tương ứng với thi sỹ nên luôn luôn xuất thần, ngất trời túy lúy, phóng cuồng ca phiêu đãng, hoan say.
Cháy và chảy, cháy và chảy mãi trong hồn, như một lần lúc 24 tuổi, chàng đã từng nhắn gởi cho giới trẻ thanh niên Việt Nam:
“Gởi một người đọc không quen, cùng cháy một thứ lửa thiêng như tôi, cùng được nuôi bằng một thứ nước điên nào đó, chảy trôi như tôi, cùng sống như tôi đang sống: Cháy và chảy, cháy và chảy không ngừng…” *
Không ngừng trôi chảy, thi nhân làm cuộc lữ lên đường qua Paris, tiếp tục chuyến đi tuyệt mù viễn xứ vào những phương trời xa lạ.
Bước đi một mình một bóng, đơn thân độc mã quá đỗi phong trần, lang thang suốt muôn chiều phiêu lưu, phiêu lãng ngàn phương.
Hừng hực ngọn lửa thiêng suốt ngày đêm bừng cháy trong trái tim, đồng thời một dòng sông xanh ngát luôn tuôn chảy bất tuyệt ở trong hồn, nên chàng thi sỹ đã hào hứng ra đi, tấu khúc viễn hành ca khắp ngàn phương muôn lối:
Tôi đi đông chìmTrời âm u thung lũng khôNhiều mây chim bay không nổiTôi điDưới kia sụp đổNúi Cấm nổ tôi raCửu Long ca từ Tây Tạng
Dòng sông Cửu Long bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, chảy gập ghềnh qua các xứ miền Miến Điện, Lào, Campuchia và xuôi dòng cuồn cuộn, cuốn lũ phù sa qua Mỹ Tho, Việt Nam, thành phố quê nhả, một thời tuổi nhỏ của thi sỹ rồi cuối cùng tuôn tràn ra đại hải, trùng dương.
Chính dòng sông Cửu Long ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn thi nhân nên chàng luôn mang theo rạt rào trôi chảy suốt trong lòng trên khắp mọi miền viễn xứ.
Như ngôi sao băng vụt ngang trời, một mình làm cuộc phiêu lưu, vút bay qua Paris, kinh đô Pháp quốc, có lúc rong rêu sống lưu lạc ở Đức, Do Thái rồi lại về Paris…
Không phải để hưởng thụ vinh hoa phú quý gì mà trái lại, tự nguyện sống không nhà, không cửa, tựa như nhánh lục bình trôi phập phềnh trên dòng sông Seine xanh biếc mộng:
Mộng ở đầu cây mơ lá câyDòng sông ngừng chảy đợi mây bayKêu nhau nhỏ nhẹ sầu năm ấyChim hải hồ bay trắng tháng ngày
Ngày tháng lang bạt kỳ hồ đó, Phạm Công Thiện đi từ bế tắc này đến tuyệt lộ khác như chính chàng tâm sự:
“Giai đoạn sống ở Paris dạo ấy là giai đoạn bế tắc nhất trong đời tôi. Một ngàn chữ không cuốn theo bước đi tôi, không tiền, không nhà, không nghề nghiệp, không tình yêu, không tương lai, không gì cả...
Tôi là một số không to tướng, di động giữa những đường phố Paris. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi hiểu được thế nào là đói, là nghèo, là khổ, là tuyệt vọng…
Đi từ bế tắc này đến bế tắc khác, nhưng tôi vẫn cảm thấy rằng tôi đã sống đến độ vỡ đê, yêu đời đến độ gần đứt mạch máu.
Vâng, trong cuộc đời hai mươi chín năm trên trái đất này, chưa bao giờ tâm hồn tôi thanh bình, trong sạch xanh lơ tựa bầu trời mùa hạ, như những ngày sống ở Paris dạo đó.” **
Thời gian vừa bi đát, long đong, vừa thơ mộng, bồng bềnh ấy, kéo dài suốt mấy tháng trời.
Cũng may sau đó, chàng được sự giúp đỡ tận tình của nhà thơ Thi Vũ, Nh. Tay Ngàn, họa sỹ Vĩnh Ấn, Trần Quang Hiếu rất nhiều và đặc biệt nhất là nhà văn Henry Miller đã chiếu cố chàng hết lòng, bằng những tấm ngân phiếu gởi từ Hoa Kỳ cũng như Lê Khắc Thanh Hoài, một nàng thơ định mệnh đã đến với chàng, tự nguyện sống chung một cách gần gũi, cận kề, gắn bó, vô ngần mật thiết.
Đó là một thiên tình sử đẹp đầm đìa, chia sẻ bao mây hồng gió xám đẫm sương mưa:
“Giai đoạn sống ở Paris dạo ấy là giai đoạn bế tắc nhất trong đời tôi. Một ngàn chữ không cuốn theo bước đi tôi, không tiền, không nhà, không nghề nghiệp, không tình yêu, không tương lai, không gì cả...
Tôi là một số không to tướng, di động giữa những đường phố Paris. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi hiểu được thế nào là đói, là nghèo, là khổ, là tuyệt vọng…
Đi từ bế tắc này đến bế tắc khác, nhưng tôi vẫn cảm thấy rằng tôi đã sống đến độ vỡ đê, yêu đời đến độ gần đứt mạch máu.
Vâng, trong cuộc đời hai mươi chín năm trên trái đất này, chưa bao giờ tâm hồn tôi thanh bình, trong sạch xanh lơ tựa bầu trời mùa hạ, như những ngày sống ở Paris dạo đó.” **
Thời gian vừa bi đát, long đong, vừa thơ mộng, bồng bềnh ấy, kéo dài suốt mấy tháng trời.
Cũng may sau đó, chàng được sự giúp đỡ tận tình của nhà thơ Thi Vũ, Nh. Tay Ngàn, họa sỹ Vĩnh Ấn, Trần Quang Hiếu rất nhiều và đặc biệt nhất là nhà văn Henry Miller đã chiếu cố chàng hết lòng, bằng những tấm ngân phiếu gởi từ Hoa Kỳ cũng như Lê Khắc Thanh Hoài, một nàng thơ định mệnh đã đến với chàng, tự nguyện sống chung một cách gần gũi, cận kề, gắn bó, vô ngần mật thiết.
Đó là một thiên tình sử đẹp đầm đìa, chia sẻ bao mây hồng gió xám đẫm sương mưa:
Một chút mây và một chút mưaHồn em thở nhẹ cõi xa xưaBuồn bay lên mấy hàng dây thépMây trắng em còn phơi ban trưa…Từ sông Seine bèo bọt chợ trờiBăng qua cầu bỗng nhớ MontreuilĐồi Montmartre hẹn em tiền kiếpMột chút buồn như có gì rơi
Dường như đã có hẹn hò nhau đâu từ tiền kiếp xa xôi nào đó rồi, đến bây giờ mới trùng ngộ, tao phùng lại bên bờ sông Seine, nên chi mới gặp nhau là cả hai đều tự động cuốn hút, nhập vào nhau ca hát chan hòa. Thăng hoa và chuyển hóa là những nốt nhạc trên cung bậc tình yêu vô điều kiện.
Với người thi sỹ thượng thừa, tuy họ sống trọn vẹn, quăng ném cả thân tâm, đắm đuối hết mình, hết sức vào đối tượng yêu thương, nhưng mà họ không hề muốn chiếm hữu, chiếm đoạt gì cả, thành thử không bị đắm chìm hay dính mắc, chẳng nặng nề ôm giữ làm của riêng mình.
Tình yêu vô điều kiện ấy, hầu như rất ít người trong chúng ta lãnh hội và thực hiện được phải không? Cho nên dù rất mặn nồng gắn bó, hòa âm tâm huyết, trải qua biết bao niềm thích thú, ru hồn lên tuyệt đỉnh hân hoan, nhưng rồi cũng ngậm ngùi chia tay trong lặng lẽ âm thầm. Chấp nhận cuộc sống ly thân, nàng tự sắp xếp, xoay xuở công việc mưu sinh để cưu mang, nuôi dưỡng năm đứa con còn nhỏ dại, ăn học thành tài.
Tuy nhiên, cũng nhờ cuộc tình thâm thiết, sinh động đó mà chàng chuyên tâm vào nghiên cứu, hoàn thành tốt nghiệp Tiến sỹ triết học tại đại học Sorbonne, rồi sau đó giảng dạy Triết học Tây phương tại đại học Toulouse ở Pháp quốc.
Thời kỳ này kéo dài suốt mấy năm tràn đầy hào hứng, tưng bừng, đám sinh viên Tây tôn sùng, kính phục chàng còn hơn thần tượng.
Thế nhưng, lại một lần nữa, từ trên tuyệt đỉnh vinh quang, đang sống trong hạnh phúc, đang được ngưỡng mộ, đang là thần tượng của đám sinh viên Anh, Pháp, Mỹ, Đức… chàng lại vất bỏ giảng đường đại học để ra đi như ngày xưa đã vất bỏ lại sau lưng đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn.
Thật là quá đỗi lạ lùng, giống như triết gia Nietzsche rời bỏ đại học Bases để lên vùng thượng sơn sống ẩn dật, suốt mười năm trời vô ngôn, chìm trong im lặng và im lặng.
Những nhận xét của Lê Khắc Thanh Hoài về Phạm Công Thiện thật chí lý:
“Tất cả những gì mà một con người bình thường trên thế gian này khát khao đeo đuổi, như tiền tài và danh vọng, thì lại chinh là những điều mà chàng luôn luôn muốn chối bỏ, khước từ, chạy trốn.
Chàng chỉ muốn ngoảnh mặt quay lưng, ném quăng những danh từ ấy thật xa thẳm, ra ngoài tâm tư, trí tuệ mình.” ***
Đúng là như thế, quả nhiên là chàng thực hiện y như vậy. Đã qua rồi thời gian gọi là công thành danh toại ấy, kể từ năm 1983, chàng thi sỹ tự ý khước từ danh vọng cao sang, chối bỏ giảng đường đại học nổi tiếng để bay vèo qua Los Angeles, Hoa Kỳ, tự nguyện dấn thân vào phương trời vô sở trú, vô sở cầu, vô sở đắc, chẳng thể nghĩ bàn.
Chàng lại tiếp tục Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất, như một tác phẩm thâm thúy, chàng viết năm 1988 ở Garden Grove.
Đường của thơ là những nẻo đường ngược gió, là quán trọ, hiên chùa tá túc qua đêm. Đêm và ngày trôi qua như giấc mộng, như sương rơi, như chớp lóe…
Nghe hơi thở nhẹ vỡ bùng. Từ vô thủy đến vô chung cõi về. Nàng thơ huyền mộng đê mê. Thế thôi chuyển cuộc muôn bề chia phôi:
Đã đi thì đã đi rồiThượng phương trùng điệp thấy gì nữa đâuHạ phương ngày tháng bể dâuSắt son tình cũ phượng cầu túy hươngCó còn chi nữa mà thươngBuổi trưa nằm ngủ thấy nường năm xưaĐã đi rồi đã đi chưaThượng phương lụa trắng đong đưa giữa trờiĐã đi mất hẳn đi rồiHạ phương tịch mịch trùng khơi phong kiềuChuyển hình trên đỉnh cô liêuLửa bay thành ngọn hồng điều mật ngônĐại Huyền biến ngưỡng triều tônTiền thân Tây Tạng nhập hồn chiêm baoÁn nga nga nẵng bạch hàoMột luồng sáng rực chiếu vào trái tim
Trái tim bốc lửa tam muội làm cháy tan hết những luật lệ phép tắc, những lề thói khuôn khổ, lối mòn cũ rích của xã hội máy móc khô khan, cạn kiệt hết bầu sinh khí, chàng thi sỹ muốn ra đi, khai phá một con đường huy hoàng sáng tạo tân kỳ, mới lạ hơn.
Đứng trên tuyệt đỉnh cô liêu, một chiều hoang vu nọ, chàng bỗng nghe văng vẳng những lời ẩn ngữ, mật ngôn huyền bí và chợt thấy thấp thoáng tiền kiếp mình ở tận xứ miền tuyết trắng Tây Tạng hoang sơ.
Biết mình là hành giả Mật tông trong các dãy hang động trên tuyệt mù Hy Mã Lạp Sơn nên trái tim Bát nhã ứng hiện những nàng tiên huyền diệu, dạo khúc cung đàn mười tám tiếng lòng Không định rung ngân, khiến cho thi sỹ chỉ còn biết đọc thần chú lim dim dung nhiếp:
Năm nàng thiên nữ tôn nghiêmTrùng quan ngũ sắc ứng điềm tán khôngÁn đa la tịch mịch hồngMười phương xuất hiện những đồng sinh thiênBát nhã là gái thiên tiênKhoan thai cởi áo mây hiền trên caoGió lùa thơm tóc tơ đàoThập bát Không định tiêu dao tiếng đànTrời mưa chim ngủ trên ngànSắt son tình cũ nước tràn sang sông
Tiếng đàn tiêu dao, vô thanh mà vang ngân bất tận, lan dài theo cuộc lữ kỳ cùng, rung hồn rúng chuyển gió sương ngàn, khắp vùng thung lũng, sơn khê.
Ơi chao! Một đóa hồng hoa vụt trổ im lìm như những nàng thiên nữ giáng trần, sà nhẹ vào hồn tim, để cho thi nhân xuất thần bay phiêu linh, phiêu hốt trong bồi hồi rộn rã, phập phồng:
Ơi chao! Một đóa hồng hoa vụt trổ im lìm như những nàng thiên nữ giáng trần, sà nhẹ vào hồn tim, để cho thi nhân xuất thần bay phiêu linh, phiêu hốt trong bồi hồi rộn rã, phập phồng:
Đã đi rồi có đi khôngThượng phương trùng điệp cỏ hồng thúy hươngĐi đâu mà lại lên đườngHạ phương còn gặp cô nường năm xưaĐã đi rồi đã đi chưaSắt son triều ngưỡng tình xưa hiện vềPhượng cầu ngũ lĩnh sơn khêMột bông hồng nở bốn bề lặng imNăm nàng tiên đậu vào timÂm nhập dương khởi lim dim xuất thần
Xuất thần, xuất cốt, xuất tinh huyết, tinh hoa trên cuộc lữ dặm dài.
Phải chăng, năm nàng tiên nữ là ẩn ngữ ám chỉ cho năm nàng thơ đã từng xuất hiện, đi qua một cách cụ thể trong đời chàng ? Có thể là như thế, phải không hỡi những Hương, Uyên, Hoài, Loan, Sương ? nhưng có lẽ không phải vậy mà là ám chỉ một cái gì thâm thúy hơn.
Đi vào cõi thơ nhiều tượng trưng, ẩn dụ, hoán dụ này, tha hồ chúng ta hiểu ra nhiều cách bất ngờ thú vị. Tuy nhiên, dẫu sao thì dẫu, cuộc đời của thi nhân vẫn dạt dào cảm hứng từ những nàng thơ trên mặt đất trần gian này.
Tình yêu vẫn là tiếng lòng muôn thuở, là chất liệu cho nhà thơ mở rộng phương trời bay bổng sáng tạo, như triết gia Nietzsche tuyên bố:
“Những trực kiến, nhập kiến sâu thẳm nhất đều xuất phát từ tình yêu.”
Hay như đạo sỹ Osho:
“Tình yêu có thể tạo ra thiên đường ngay bây giờ và ở đây. Đây là cốt tủy thông điệp của tôi: Hãy thương yêu nhiều hơn nữa, nhiều đến mức mà bản thân bạn đơn giản trở thành một dòng suối tình yêu mà không là gì khác.”
Còn Phạm Công Thiện thì:
“Nói đến tình yêu, tình dục thì mọi người đều run sợ. Đạo sư Krishnamurti đã hỏi một câu rất sâu sắc: “Tại sao chúng ta biến tình dục thành ra một vấn đề?” Tất cả đều trở thành vấn đề, ngay cả tình dục cũng trở thành vấn đề.
Tại sao không để tình dục phát triển tự nhiên với tình yêu, tình thương như đóa hồng hé mở với giọt sương mai? Tình dục không phải chỉ là cảm giác, tình dục là sự tuôn chảy tự nhiên từ Nguồn Suối Tình Thương Bao La của Sự Sống.” ****
Vâng, đúng là như vậy, tình yêu, tình dục cùng chung một suối nguồn tuôn chảy mênh mông, không giới hạn giữa đúng hay sai, tốt hay xấu, sạch hay dơ… gì hết cả.
Một khi tình yêu dịu dàng phát sinh từ cái đẹp trinh tuyền của tình thương nguyên sơ, nguyên thủy, thì những hình ảnh tiêu biểu cho tình yêu, thể hiện qua những thục nữ, thuyền quyên, những nàng thơ, tiên nữ, duyên dáng mỹ miều, yểu điệu hồng nhan là rất đáng trân trọng mà thi nhân gặp gỡ, tao ngộ, trùng phùng, gọi là Con gái:
Càng xa càng mông lungTới gần vẫn lạ lùngNhắm mắt sao lạ quáMở ra ồ không cùng
Linh hồn con gái, phải chăng là nhiệm huyền thi vị như vậy, khiến cho chàng thi sỹ mơ màng, mộng mị trong từng trận trận chiêm bao, ảo dị phiêu phiêu:
Một người nằm thở quạnh hiuMơ mòng thiếu nữ cô liêu giáng trầnGió khuya đập cửa bất thầnGiựt mình thức dậy mấy lần chiêm baoCó nàng tiên dáng cao caoNước da mòng mọng hao hao bông hườngCái đêm lành lạnh chiếu giườngGió lùa hương lạ bên đường tạt quaĐêm qua thương nhớ người taTối nay tơ tưởng thiên hà bơ vơTháng ngày tôi nhớ bâng quơNhững nàng con gái bao giờ gặp đâu
Gặp nhau bao giờ chưa, hỡi những sắc nước hương trời, những kỳ hoa dị thảo, những hương đồng cỏ nội khắp lâm tuyền, biên ải, ngoài bến gió bờ sương ở mọi chốn muôn nơi, hỡi những thuyền quyên Hương, Uyên, Hoài, Loan, Sương…diễm tuyệt, một thuở nào quyến rũ, du dương tận xứ miền Liên Chiểu hay ngút ngàn sương khói Đà Lạt quá mang mang:
Bầy chim bạc má gọi đànThương nhau gặp lại trên ngàn đỉnh caoTrở về Đà Lạt ngó đàoGhé thăm Liên Chiểu thuở nào yêu nhau
Hãy yêu thương nhau đi hỡi nhân loại đang sống trên quả địa cầu mầu nhiệm này. Hãy hát bản tình ca muôn thuở đại bi tâm.
Thầm cảm nhận, thấm thía hương vị mị kỳ của tình yêu tương đối và tuyệt đối, rồi từ đó, thi nhân tự nhiên như nhiên chuyển dần sang ngạt ngào, tuyệt bích tình thương.
Yêu nhau cảm động dường nào ơi xao xuyến, xốn xang, rộn ràng trong tiếng hát liêu trai của nàng ca sĩ yếu gầy mà thi nhân hơn một lần say đắm trầm mê tha thiết trong hồn lệ rưng rưng:
Thầm cảm nhận, thấm thía hương vị mị kỳ của tình yêu tương đối và tuyệt đối, rồi từ đó, thi nhân tự nhiên như nhiên chuyển dần sang ngạt ngào, tuyệt bích tình thương.
Yêu nhau cảm động dường nào ơi xao xuyến, xốn xang, rộn ràng trong tiếng hát liêu trai của nàng ca sĩ yếu gầy mà thi nhân hơn một lần say đắm trầm mê tha thiết trong hồn lệ rưng rưng:
Cô đơn về trắng sương rừngAnh nghe tiếng hát hoang đường nửa đêmKhuya buồn tủi nhục môi emMưa run lặng lẽ bên thềm bơ vơTiếng ru vàng xuống đôi bờHoang vu anh đứng đợi chờ chim kêuTay gầy ôm chặt tình yêuAnh về phố gục những chiều hư vôĐời đi trên những nấm mồĐau thương em hát cơ hồ khăn tangPhố chiều thả bước lang thangNhư con sông nhỏ mơ màng biển xanhNửa đêm khói đốt đời anhYêu em câm lặng khô cành thu đôngLời em như một dòng sôngĐôi bờ anh đứng giữa lòng hoa niênMưa chiều nước chảy triền miênMột con chim dại lạc miền hoang lươngVề đâu thương những con đườngLê thê phố cũ nghe buồn hè xưa
Thấu thị nhân sinh, tình yêu đã thăng hoa thành tình thương vô hạn. Tình thương yêu tối thượng như mây lan tỏa khắp mười phương, chan chứa trộn lẫn trong giọng chim Ca lăng tần già hòa quyện tiếng kêu thanh tao, thánh thót nhập hồn sương khói vô vi, trở thành bồ đề tâm diễm tuyệt miên trường:
Thầm cảm nhận thấm thía hương vị mị kỳ của tình yêu tương đối và tuyệt đối, rồi từ đó, thi nhân tự nhiên như nhiên chuyển dần sang ngạt ngào tuyệt bích tình thương. Tình thương yêu tối thượng như mây lan tỏa khắp mười phương, chan chứa trộn lẫn trong giọng chim ca lăng tần già hòa quyện tiếng kêu thanh tao, thánh thót nhập hồn sương khói vô vi trở thành Bồ đề tâm thâm viễn miên trường:
Chim ca lăng kêu sươngTôi sụp lạy cúng dườngLôi bồ đề tâm dậyChấn động khắp mười phươngChim ca lăng kêu sươngTôi sụp lạy vô lượngLôi bồ đề tâm dậyĐịa động cả mười phươngChim ca lăng kêu sươngTôi sụp lạy đại dươngLôi bồ đề tâm dậySấm sét nổ mười phươngChim ca lăng kêu sươngTôi sụp lạy bất thườngLôi bồ đề tâm dậyGió bão lặng mười phương
Khi thi nhân quỳ xuống, sụp lạy tất cả muôn loài vạn vật, đất trời thiên vạn cổ là lúc Bồ đề tâm bừng dậy tỏa chiếu hào quang rạng rỡ khắp muôn phương. Đó cũng là hành động mà Bồ tát Thường Bất Khinh vẫn thường thực hiện suốt bình sinh không hề mệt mỏi. Bồ đề tâm chính là Đại bi tâm, có thể làm sụp đổ tất cả mọi ác pháp. Phạm Công Thiện từ bao giờ đến bây giờ vẫn thường xuyên miên mật hít thở trong bầu khí hậu phong nhiêu ấy, hơi thở biến thành hành động sụp lạy là đã nhập vào vô ngã, vắng lặng cái tôi, vắng lặng mọi so đo chân giả, xa lìa mọi giả danh, tham chấp, chỉ còn cái đang là tỏa sáng ánh thái dương:
Chim ca lăng kêu sươngTôi sụp lạy vô thườngLôi bồ đề tâm dậySấm chẻ đứt Kim CươngChim ca lăng kêu sươngTôi sụp lạy lên đườngLôi bồ đề tâm dậySấm trời động thượng phươngChim ca lăng kêu sươngTôi sụp lạy thiên hươngBồ đề tâm tăng trưởngBông quỳnh nở bất thườngChim ca lăng kêu sươngTôi sụp lạy vách tườngBồ đề tâm quy ngưỡngBông trang trổ đầu đường
Bồ đề tâm là sự tỉnh thức toàn diện của tình thương vô hạn. Sức mạnh vĩ đại nhất trên tất cả mọi sức mạnh của nhân loại. Đó là tình thương yêu diệu dụng vô điều kiện mà thi sĩ thiền sư Phạm Công Thiện đã thể hiện một cách ngoạn mục trên cuộc lữ tuyệt cùng.
Chúng ta hãy nghe chàng nói: “Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống ở Do Thái, rồi ở Đức quốc và ở lâu dài tại Pháp quốc. Đến năm 1983 qua một cơn chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ, trở lại thành phố Los Angeles sau một thời gian xa vắng gần hai mươi năm. Từ năm 1983 cho đến năm 1994, trên mười một năm nay, lại qua nhiều cơn chuyển động toàn diện liên tục của tâm thức viễn ly, tôi vẫn tiếp tục sống ở thành phố Los Angeles, sau vài chuyến lui về vùng đồi núi im lặng ở Úc Châu, tôi vẫn trở lại với thành phố Los Angeles như trở về tập sống hồn nhiên tự tại với những cơn động đất thường xuyên của đời mình.
Cái “tôi” ở trên đã trở thành một cái gì khác. Không biết là cái gì ? Cũng chẳng bận tâm biết đến làm gì, chỉ biết ở đây và ở đó vẫn còn động đậy nhẹ nhàng những bước chân thầm kín, những bước chân lặng lẽ, thong dong bình thản trở về sự im lặng.” *****
Trên ngõ về im lặng, im lặng vô ngần giữa bốn bề, mười phương yên tịnh tịch nhiên. Xuất thần nhập cốt, hưng phấn hân hoan rạt rào, vô cùng cảm hứng là những trạng thái kỳ diệu mà Phạm Công Thiện thỉnh thoảng rơi vào một cách phiêu diêu, ngay từ lúc còn tuổi thiếu niên, như một thời sống bồng tênh trên núi rừng phố hoa Đà Lạt, một chiều hiu hắt nọ, chàng choáng váng, sững sờ khi bắt gặp Thiền tông giữa cơn mưa gió bão bùng: “Tôi quỳ xuống lạy lung tung, tôi lạy gió, lạy mưa, lạy nắng, lạy không khí, lạy cái ghế, lạy cái bàn, lạy vách tường, lạy đóa hoa trong ly, lạy cái giường. Ồ tôi hạnh phúc, sung sướng, yêu đời, yêu cả vũ trụ. Cảm tạ hết mọi đau khổ, mọi bất công, mọi bi kịch, cảm tạ hết, cảm tạ bất tận. Tôi đã tìm được tất cả những gì đã đánh mất từ mấy ngàn năm nay.” ******
Hay một lần nơi thành phố Garden Grove ở California, trong căn phòng trống trải cô tịch vô vi, thi nhân cũng nhập diệu, thấy mình hóa thân trùng trùng giữa mười phương pháp giới vô ngần: “Trong tận cùng sâu thẳm của kiếp người, nó không khác người khác, nó là tất cả mọi người đang di động trên trái đất, nó là tất cả những định tinh và hành tinh, nó là con sâu, cái kiến, con bướm, con quạ, trái cam, chiếc lá. Nó là cơn gió thổi vèo qua kẹt cửa, nó là luồng ánh sáng và đêm tối…Nó là một cảm giác, một tư tưởng, một ý tưởng và một cử chỉ. Nó là mỗi chữ, mỗi tiếng, mỗi lời trong tất cả ngôn ngữ loài người…Nó là sự trống không mênh mông của mười tám cái không tràn trề của Trí Tuệ Bát Nhã sang sông…Nó là sức mạnh vũ bão của tất cả năng lực vũ trụ, sự tập trung tư tưởng mãnh liệt nhất của tất cả tư tưởng nhân loại, tập thành khủng khiếp của tất cả đạo lý và triết lý…Nó là nguyên lý đồng nhất tối thượng, đồng thời là sự chuyển hóa tối hậu của chính nguyên lý đồng nhất và bước nhảy tịch liêu vào cõi tịch mịch của một đóa hoa hồng tơi tả…” ******
Rồi một lần kia, nhà thơ cô đơn, tha thẩn dạo chơi những ngày cận kề cuối năm ở tận góc bể chân trời ven bãi biển Laguna Beach xa xăm bỗng nhập thần mộng thấy đại thi hào Nguyễn Du và Thúy Kiều hiện về thấp thoáng vi vu:
Chúng ta hãy nghe chàng nói: “Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống ở Do Thái, rồi ở Đức quốc và ở lâu dài tại Pháp quốc. Đến năm 1983 qua một cơn chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ, trở lại thành phố Los Angeles sau một thời gian xa vắng gần hai mươi năm. Từ năm 1983 cho đến năm 1994, trên mười một năm nay, lại qua nhiều cơn chuyển động toàn diện liên tục của tâm thức viễn ly, tôi vẫn tiếp tục sống ở thành phố Los Angeles, sau vài chuyến lui về vùng đồi núi im lặng ở Úc Châu, tôi vẫn trở lại với thành phố Los Angeles như trở về tập sống hồn nhiên tự tại với những cơn động đất thường xuyên của đời mình.
Trên ngõ về im lặng, im lặng vô ngần giữa bốn bề, mười phương yên tịnh tịch nhiên. Xuất thần nhập cốt, hưng phấn hân hoan rạt rào, vô cùng cảm hứng là những trạng thái kỳ diệu mà Phạm Công Thiện thỉnh thoảng rơi vào một cách phiêu diêu, ngay từ lúc còn tuổi thiếu niên, như một thời sống bồng tênh trên núi rừng phố hoa Đà Lạt, một chiều hiu hắt nọ, chàng choáng váng, sững sờ khi bắt gặp Thiền tông giữa cơn mưa gió bão bùng: “Tôi quỳ xuống lạy lung tung, tôi lạy gió, lạy mưa, lạy nắng, lạy không khí, lạy cái ghế, lạy cái bàn, lạy vách tường, lạy đóa hoa trong ly, lạy cái giường. Ồ tôi hạnh phúc, sung sướng, yêu đời, yêu cả vũ trụ. Cảm tạ hết mọi đau khổ, mọi bất công, mọi bi kịch, cảm tạ hết, cảm tạ bất tận. Tôi đã tìm được tất cả những gì đã đánh mất từ mấy ngàn năm nay.” ******
Hay một lần nơi thành phố Garden Grove ở California, trong căn phòng trống trải cô tịch vô vi, thi nhân cũng nhập diệu, thấy mình hóa thân trùng trùng giữa mười phương pháp giới vô ngần: “Trong tận cùng sâu thẳm của kiếp người, nó không khác người khác, nó là tất cả mọi người đang di động trên trái đất, nó là tất cả những định tinh và hành tinh, nó là con sâu, cái kiến, con bướm, con quạ, trái cam, chiếc lá. Nó là cơn gió thổi vèo qua kẹt cửa, nó là luồng ánh sáng và đêm tối…Nó là một cảm giác, một tư tưởng, một ý tưởng và một cử chỉ. Nó là mỗi chữ, mỗi tiếng, mỗi lời trong tất cả ngôn ngữ loài người…Nó là sự trống không mênh mông của mười tám cái không tràn trề của Trí Tuệ Bát Nhã sang sông…Nó là sức mạnh vũ bão của tất cả năng lực vũ trụ, sự tập trung tư tưởng mãnh liệt nhất của tất cả tư tưởng nhân loại, tập thành khủng khiếp của tất cả đạo lý và triết lý…Nó là nguyên lý đồng nhất tối thượng, đồng thời là sự chuyển hóa tối hậu của chính nguyên lý đồng nhất và bước nhảy tịch liêu vào cõi tịch mịch của một đóa hoa hồng tơi tả…” ******
Rồi một lần kia, nhà thơ cô đơn, tha thẩn dạo chơi những ngày cận kề cuối năm ở tận góc bể chân trời ven bãi biển Laguna Beach xa xăm bỗng nhập thần mộng thấy đại thi hào Nguyễn Du và Thúy Kiều hiện về thấp thoáng vi vu:
Năm tàn nằm mớ Nguyễn DuKiều trôi đâu mất la phù dặm khơiCuốc kêu bảng lảng tháp hờiNhắc tên người cũ rã rời cuối năm
Con ngựa ô lồng lộn Mã Minh gãy đànLong Thọ thở dài nhật nguyệt lang thang
Rồi lại một chiều phiêu bồng lãng bạt, rong rêu cùng họa sĩ Vĩnh Ấn bên dòng sông Seine bồng bềnh, rực ngời hoa nắng ở thành phố Paris, thi sĩ bỗng thấy Van Gogh nhập cốt ứng hiện huyền hòa:
Úm tô rô Van Gogh hiện raÚm ba la u linh ma haĐất nứt nở ra bầy quạ trắngHồn thiêng Van Gogh nhập vào taÚm tô ra hương linh hiện raÚm ba la ưu ưu Bát NhãĐất nứt nở ra đôi vạc trắngHồn thiêng Van Gogh nhập đêm qua
Van Gogh là một họa sĩ dị thường, có một câu nói bất hủ:
“Trong cuộc đời và trong cả hội họa cũng vậy, rất có thể mi bỏ qua không cần Thượng đế, nhưng mi, kẻ khổ đau, mi không thể bỏ qua, không cần tới một điều cao viễn hơn mi, chính là đời mi: Quyền năng sáng tạo.” Vâng, sáng tạo là một nghệ thuật tối thượng, là bước đi tuyệt cùng tự giải phóng, tự giải thoát bản thân khỏi nhà tù do chính mình tự tạo cho mình, như văn hào xuất chúng Henry Miller cũng đã từng tuyên bố: “Kẻ sáng tạo kêu gọi con người trực nhận rằng, tất cả mọi tự do có sẵn trong bản thân rồi. Rằng con người không cần phải bận tâm lo lắng đến vận mệnh thế giới (vì đó không phải là vấn đề của hắn) mà chỉ nên lo giải quyết vấn đề riêng tư của chính riêng mình, tức là vấn đề giải phóng, giải thoát, chứ không phải vấn đề nào khác cả.”
Henry Miller lấy giải thoát làm đề tài tối thượng và Phạm Công Thiện cũng tương ứng trên tinh thần giải thoát giải phóng ấy, cho nên liền quảy túi thơ bầu rượu, xuôi ngược bước đi nhảy múa trên thông lộ phong quang sáng tạo vô lường. Tường tận thấy rõ cái thực tại ở đây bây giờ, thở cùng linh khí của nhật nguyệt thiên thu, tái tạo từng điệu thở, từng ý niệm, nổ tung mọi cố chấp thâm căn cố đế để thể nhập Tánh Không, xô cửa huyền vi mà bước vào Tâm giới, nơi tuyệt cùng của vạn vật Nhất Như. Bước tự do tự tại, thênh thang giải thoát mọi dính mắc, buộc ràng, chỉ còn sáng tạo và sáng tạo bao la, dốc hết tinh hoa, tinh túy để tựu thành những tác phẩm độc đáo trầm tư:
Henry Miller lấy giải thoát làm đề tài tối thượng và Phạm Công Thiện cũng tương ứng trên tinh thần giải thoát giải phóng ấy, cho nên liền quảy túi thơ bầu rượu, xuôi ngược bước đi nhảy múa trên thông lộ phong quang sáng tạo vô lường. Tường tận thấy rõ cái thực tại ở đây bây giờ, thở cùng linh khí của nhật nguyệt thiên thu, tái tạo từng điệu thở, từng ý niệm, nổ tung mọi cố chấp thâm căn cố đế để thể nhập Tánh Không, xô cửa huyền vi mà bước vào Tâm giới, nơi tuyệt cùng của vạn vật Nhất Như. Bước tự do tự tại, thênh thang giải thoát mọi dính mắc, buộc ràng, chỉ còn sáng tạo và sáng tạo bao la, dốc hết tinh hoa, tinh túy để tựu thành những tác phẩm độc đáo trầm tư:
Từ Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất đến Khơi mạch nguồn thơ thi sĩ Seamus Heaney, từ Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử đến Nguyễn Du đại thi hào dân tộc, từ Đối mặt với một ngàn năm cô đơn của Nietzsche đến Chỉ còn tiếng thơ trên mặt đất, từ Triết lý Việt Nam về sự vượt biên đến Khai ngôn cho một câu hỏi dễ hiểu : Triết học là gì ? từ Nét đẹp tinh túy trong sáng của đạo lý Phật giáo đến Làm thế nào để trở thành một bậc Bồ tát sáng rực khắp bốn phương, từ Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng đến Trên tất cả đỉnh cao là lặng im…là những bước nhảy thượng đẳng, tuyệt luân, hùng tráng, phi thường, vượt qua sự chuyển hóa toàn diện của tâm thức đến độ vô sư tự ngộ, bùng vỡ ra một điều chi bất khả tư nghì giữa như thị đang là ngay ở đây thôi:
Những gì không vói tớiThì có sẵn đó rồiBao nhiêu danh vọng hờiVài ba cụm bèo trôiBa mươi năm nằm dàiMột hôm đứng phắt dậyBất nhị xòe tầm tayBất ngờ tôi sụp lạyTừ trống trải nhận thấyTự trống trải lắng ngheTịch diệt liền tại đâyXuân dậy giữa trưa hè
Xuân là Nguyên xuân, Tâm xuân, là mùa xuân miên viễn trong lòng người, thi sĩ đã thấy và nghe được như một phép nhiệm mầu làm biến tan mọi niềm đau nỗi khổ,mọi phiền não lao đao:
Hôm nay là hôm nàoThôi đừng hỏi tại saoPhép lạ đập vào cửaBông súng nở trắng phauNgồi im giữa vòng trònThở nhẹ như chim nonMộng thân trùm pháp giớiBông quỳnh vừa nở trọnLắng vào trong cái ngheRót vào lòng thật khẽLọt vào trong lặng lẽĐộng tịnh đều dứt nhẹHôm qua vẫn trở lạiDĩ vãng là hôm nayNgày mai là hiện tạiHiện tại chết mỗi giây
Đấy là những bài thơ ngắn gọn, tuy đơn sơ giản dị nhưng đi thẳng vào lòng người một cách tự nhiên, thể hiện cốt cách đặc thù riêng biệt, hàm dung ý thiền “một là tất cả, tất cả là một” của tinh thần Hoa Nghiêm. Tất cả ý thức và vô thức của con người bị phá vỡ tung ra, xoay tròn trôn ốc mất hút trong trùng trùng duyên khởi của toàn thể sự sự vô ngại pháp giới. Một giây phút kéo dài cả triệu kiếp, một bước đi là nghìn tỷ dặm, một cái nhìn là thiên thu bừng dậy, nói như Phạm Công Thiện:
“Nếu chúng ta xoay chuyển cái nhìn của chúng ta vào trái tim vũ trụ theo nhịp thở kinh Hoa Nghiêm thì tất cả mọi sự đều dung thông, dung nhiếp, viên dung tự tại vô ngại, thời gian là không gian, một thời gian là tất cả không gian, một không gian là tất cả không gian, tất cả thời gian là một không gian, tất cả không gian là một thời gian.” *****
Khi tiềm ẩn nguyên khí, nội lực thâm hậu thì bậc cao thủ cự phách thường kiệm lời, ít nói mà linh hoạt, tùy hứng như trẻ thơ, hồn nhiên đùa rỡn, xem cuộc đời như một trò chơi. Còn kẻ thi sĩ xuất chúng, sáng tạo vô vàn cảnh giới thi ca quá mộng thì ít nhất cũng sờ đụng tới hố thẳm và đỉnh cao tâm linh của chính mình.
Đỉnh cao và hố thẳm tâm linh ấy, Phạm Công Thiện đã từng va chạm, giáp mặt trong một bình sinh hy hữu nào đó, cho nên cả trời thơ đất mộng dạt dào bao nhựa sống thâm trầm nhập vào trong từng điệu thở tinh khôi:
Khi tiềm ẩn nguyên khí, nội lực thâm hậu thì bậc cao thủ cự phách thường kiệm lời, ít nói mà linh hoạt, tùy hứng như trẻ thơ, hồn nhiên đùa rỡn, xem cuộc đời như một trò chơi. Còn kẻ thi sĩ xuất chúng, sáng tạo vô vàn cảnh giới thi ca quá mộng thì ít nhất cũng sờ đụng tới hố thẳm và đỉnh cao tâm linh của chính mình.
Đỉnh cao và hố thẳm tâm linh ấy, Phạm Công Thiện đã từng va chạm, giáp mặt trong một bình sinh hy hữu nào đó, cho nên cả trời thơ đất mộng dạt dào bao nhựa sống thâm trầm nhập vào trong từng điệu thở tinh khôi:
Lùa nhẹ vào một mốiĐập mạnh một nhát thôiTất cả đều bày phơiTrí tuệ sáng rực ngời
Muốn có được ánh sáng quang minh trí tuệ rực ngời đó thì chẳng phải chạy tìm đâu xa mà chính ngay nơi tận đáy lòng mình, chính nơi mình đang cư ngụ, lưu trú, ngay nơi những nghịch cảnh, thử thách mà mình phải giáp mặt ngày đêm một cách anh dũng, không nao núng, như nhà thơ từng nhắc nhở:
“Chúng ta chỉ thành Phật được, khi chúng ta là con người ở giữa thị tứ, không có cảnh Bồng lai thiên thai địa đàng nào là thuận cảnh để ta giải thoát được, chinh tất cả Nghịch cảnh của nơi ta sinh sống mới là nơi ta tự chuyển hóa tâm thức để nhập vào Tự chứng Thánh trí.” *****
Nghịch cảnh là môi trường sống, hoàn cảnh sống của mình thường bị nhiều chướng duyên đối nghịch nhưng cũng chính từ những nghịch cảnh đó mà mình chịu đựng, kiên nhẫn vượt qua, biết chuyển hóa nó thì liễu ngộ. Thánh trí đó là trí tuệ, tuệ giác, là cái bản tâm nguyên sơ thanh tịnh của mình đấy thôi. Khi thấy rõ tận tường được điều đó thì xem mọi sự ở đời như sống chết, đến đi, hơn thua, đúng sai, phải trái, giàu nghèo, thành công, thất bại,… đều là nhân duyên giả hợp, chẳng hề sợ hãi, lo âu chuyện còn hay mất:
Thất bại giữa đời nàyChết sáng ngời trên caoBông tàn phai cõi đấtMọc lại giữa trăng saoNhảy thẳng vào sự việcChẳng có gì đáng tiếcSự việc lớn lao nhấtLà hiện tiền tịch diệt
Thực tại hiện tiền là ngay đây bây giờ, ngay trong mỗi phút giây là chứa đầy thiên thu vĩnh cửu, ngay trong từng hơi thở ra vào là đủ cả nghìn năm:
Bôn ba ngoài vạn dặmCũng chỉ một trăng rằmBao nhiêu là hố thẳmXoáy về nốt ruồi đậm
Hố thẳm là ẩn ngữ chỉ cho tư tưởng của chúng ta. Chỉ cần một chút tơ tưởng móng lên thôi là cả ba nghìn thế giới, sơn hà đại địa hay tiên nữ, thục nữ mười phương liền hiển lộ, bừng dậy huy hoàng, rõ ràng hiện ngay trước mắt tức thì:
Chỉ cần một ý tưởngKhắp vũ trụ mười phươngSáng bừng lên vô lượngThiên tiên hiện đầu giường
Phải chăng đó là cái thấy tuệ giác siêu việt của một tâm hồn bao la thông suốt lẽ sâu xa của trùng trùng duyên khởi Hoa Nghiêm pháp giới diệu kỳ:
Mỗi bước chân ra điTriệu vũ trụ thiên diMỗi chỗ tôi ngồi lạiSáng bừng lên diệu lý
Chân lý vi diệu đó, thi nhân bỗng phát hiện chẳng ở đâu xa mà ngay tại đây và bây giờ, ngay giữa phù du cát bụi giữa vui buồn sướng khổ trong cõi lòng huyền diệu của thức tâm:
Trăm năm đời hờ hữngĐêm ngày buồn lơ lửngLinh địa là tại đâyNơi chỗ tôi đang đứng
Linh địa là mặt đất thiêng liêng này, nơi thi sĩ đang sống từng phút từng giây đầy trọn vẹn. Sống từ đồng bằng sông Cửu Long đến cao nguyên sương mù Đà Lạt, từ Mỹ Tho, Sài Gòn, Nha Trang đến Paris, Los Angeles, Chicago, từ Monterey Park, Garden Grove, Long Beach đến New York, Bellflower, Washington, từ San Gabriel, Alhambra, Houston đến Sydney, Earlwood, Glebe… ngút ngàn viễn xứ xa xôi:
Thoắt đi một đời ngườiBuồn hoài cũng thế thôiTrăm năm là giây phútChưa đi đã tới rồi
Hàng triệu tỷ năm trôi qua và giờ đây ngưng đọng trong cái đang là, nơi người em thi ca từ vô lượng kiếp trở về đang mỉm cười nguyên sơ rạng ngời mới lạ:
Mười lăm tỷ năm quaTừ vạn triệu thiên hàBây giờ ta mới tớiGặp lại em hôm qua
Cuộc trùng phùng kỳ ngộ thật vô cùng thú vị, tuyệt hảo tân kỳ như một kẻ đốn ngộ vô ngôn vì thấy toàn thể vũ trụ là chốn đạo tràng đầy đủ chư Phật, Bồ tát, Thần linh đều viên dung cùng một ngọn ngành thanh tịnh:
Tất cả là đạo tràng thần linhTa ngồi tham ngưỡng cội vô hìnhThênh thang phù thế làm chim óBay lượn tháng ngày cõi lặng thinh
Bay lượn giữa phong quang trời đất, nhật nguyệt hay thả trôi trên dòng sông Mật tông thấm đẫm tình Mẹ Đại bi, Đại trí Tãra xanh biếc huyền mộng chan hòa. Cả vũ trụ mênh mông là một tu viện rồi thì về chùa hay xa chùa cũng trong vòng tay bao dung mở rộng:
Tãra mười tiếng đại khôngẢo thân nằm giữa dòng sông Mật thừaVề chùa một dúm muối dưaXa chùa cũng thế : Hứng mưa mỉm cười
Hầu như suốt cuộc đời Phạm Công Thiện thường gắn bó, thân mật, cận kề với những ngôi chùa ở quê hương cũng như các ngôi chùa nằm dọc ven đường lang bạt trên toàn thế giới, chàng ở chùa nhiều hơn là ở nhà. Từ chùa Hải Đức ở Nha Trang đến chùa Vạn Hạnh ở Sài Gòn, từ chùa Việt Nam ở Los Angeles đến chùa Viên Thông ở Bellflower, từ chùa Diệu Pháp ở Monterey Park đến chùa Liên Hoa ở Garden Grove... Cửa chùa là cửa Không, Không là Không Tánh nên tha hồ vào ra thoải mái, chẳng hề chướng ngại gì cả. Cho nên từ Bát Nhã đến Pháp Hoa, từ Kim Cang đến Hoa Nghiêm, từ Mật tông đến Thiền tông, từ thi sĩ đến thiền sư, Phạm Công Thiện lại tùy duyên cất cao giọng sư tử hống trong các pháp đường, thiền viện ở Mỹ Châu và Úc Châu.
Mặc dù, mới buổi sáng giảng kinh Kim Cang thao thao bất tuyệt trên thiền đường, rồi buổi chiều thõng tay vào chợ uống rượu ngâm thơ túy lúy cùng bọn văn nghệ sĩ, giang hồ tứ chiếng đó đây mà phong thái vẫn nhàn nhã, tự tại, tiêu dao. Mỉm cười buông bỏ nhẹ nhàng để bước đi trầm hùng sư tử, tự do vô sự. Vô sự như chim hải hồ bay trắng tháng ngày bay khắp thiên thanh vĩnh thúy rồi đậu xuống mái hiên chùa rêu phong tịch mịch, ngồi nhập định du hý tam muội làm thơ kính tặng cõi thinh không lồng lộng:
Mặc dù, mới buổi sáng giảng kinh Kim Cang thao thao bất tuyệt trên thiền đường, rồi buổi chiều thõng tay vào chợ uống rượu ngâm thơ túy lúy cùng bọn văn nghệ sĩ, giang hồ tứ chiếng đó đây mà phong thái vẫn nhàn nhã, tự tại, tiêu dao. Mỉm cười buông bỏ nhẹ nhàng để bước đi trầm hùng sư tử, tự do vô sự. Vô sự như chim hải hồ bay trắng tháng ngày bay khắp thiên thanh vĩnh thúy rồi đậu xuống mái hiên chùa rêu phong tịch mịch, ngồi nhập định du hý tam muội làm thơ kính tặng cõi thinh không lồng lộng:
Mồng tơi mây ngủ hiên chùaDâm bụt rực đỏ hai mùa gặp nhauHơi rừng thơm nức chiêm baoĐêm thâu nín thở ngó vào bài thơ
Toàn thể cuộc đời là bài thơ, sống chết là bài thơ, có không là bài thơ, mộng thực là bài thơ, buồn vui, sướng khổ là bài thơ, hơn thua, được mất là bài thơ, thành công, thất bại là bài thơ, gặp gỡ, ly biệt là bài thơ, phiền não, an lạc là bài thơ, khổ đau, hạnh phúc là bài thơ, chiêm bao mộng mị là bài thơ hay Vô thượng chánh đẳng, chánh giác cũng đều là thơ thơ hết thảy, thơ ở trong thơ:
Tượng Phật ở bàn thờDọn dẹp để trống trơTôi vẫn lạy chỗ trốngChỗ trống thành bài thơ
Chính cuộc đời của Phạm Công Thiện là một bài thơ quá tuyệt vời bát ngát, quá tuyệt mỹ lý thú, quá tràn trề mê say, ngợp đầy hào sảng rạt rào vô hạn, đã khơi dậy nguồn cảm hứng dồi dào, thắp lên ngọn lửa thiêng huy hoàng sáng tạo, bừng cháy bất tận giữa lòng nhân thế tuyệt trần:
Hứng lúc nào cũng đếnGiờ nào cũng giờ hênNgồi thẳng lưng mà viếtVạn tơ tưởng bồng bềnh
Viết là sống. Sống một lần Tự do đầu tiên và cuối cùng như Krishnamurti hay sống Alexis Zorba Con người chịu chơi như Nikos Kazantzakis hoặc sống Chơi giữa mùa trăng như Hàn Mặc Tử: “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui buồn, giận hờn đến gần đứt sự sống.” Thể điệu sống ấy, thật giống hệt với thi sĩ Phạm Công Thiện xiết bao !
Thật vậy, chẳng những giống như Hàn Mặc Tử về phong cách nhập cuộc tha thiết, kiệt tận bình sinh, dốc hết toàn thể xương xảu máu me vào ly rượu tình yêu nồng say óng ả mà Phạm Công Thiện còn tương ứng, tương tợ với nhà thơ lãng tử Rimbaud từng trải qua Một mùa địa ngục bi tráng, bi hùng, với đại thi hào Walt Whitman, chỉ một Lá cỏ cũng đủ chứa đựng cả vô tận đất trời, với Suzuki Thiền luận, với Padmasambhava Tổ sư Mật tông Tây Tạng, với Milarepa Con người siêu việt, với Long Thọ Trung quán luận, với Heidegger Về thể tính của Chân lý, với Nietzsche, Zarathustra đã nói như thế trên ngõ về vĩnh cửu, với thi hào Hoelderlin lên đường Quy hồi cố hương, với Apollinaire, một thi nhân trầm lặng mặn nồng, sống trọn vẹn hết mình với tình yêu và nhất là với Henry Miller, một tâm hồn thượng đẳng mà Phạm Công Thiện luôn luôn kính phục và ca tụng hết lời:
“Đối với tôi, Henry Miller còn vĩ đại hơn cả Walt Whitman, hơn cả Dante, Shakespeare và Goethe. Vĩ đại một cách bí mật, một cách thần diệu và vượt ra ngoài cả văn minh, văn hóa và văn chương của toàn thể nhân loại, vượt ra ngoài Thiện và Ác, Đạo và Phi Đạo.
Đứng trên đảnh núi cao nhất của nhân loại, Henry Miller cùng cười to tiếng với Duy Ma Cật, với Milarepa, với tất cả những gì chưa bao giờ xuất hiện trên toàn thể không gian, thời gian của cái gọi là Thực Tại và của cái gọi là Hư Vô.
Tương lai của toàn thể nhân loại phải bắt đầu lại với Henty Miller thì mới may ra chuyển hóa toàn diện trái đất này thành viên ngọc mani (như ý) trong trẻo của Quán Thế Âm Bồ Tát. Henry Miller là một trong vài ba thiên tài nhân loại đã đánh thức dậy thế lực mãnh liệt nhất của Lòng Đại Bi trong ý thức và vô thức của con người trên mặt đất…
Đọc Henry Miller là nghe lại tiếng nói của Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Vệ Đà, Kinh Bát Nhã, Kinh Kim Cang, Kinh Hoa Nghiêm, tắm mình trong không khí u trầm của Đạo Đức Kinh, đùa hát trong tiết điệu của Nam Hoa Kinh, ca ngợi mặt trời trong Kinh Ai Cập, thờ lạy buổi chiều trong Kinh Á Rập và Do Thái, nhảy múa với cái chết trong Kinh Tây Tạng, làm ái tình trong Kinh Mật tông, say rượu ngọt trong Kinh Hy Lạp…Tất cả đều là Kinh, tất cả đều là Đạo, tất cả đều là cầu nguyện, tất cả đều là hơi thở của vũ trụ, tất cả đều là linh thiêng và đều huyền dị. Tất cả đều im lặng, sự im lặng trong khiết, thoát ra từ hố thẳm vạn đại.” **
Lần đầu tiên qua Hoa Kỳ lúc mới 24 tuổi, một người duy nhất mà Phạm Công Thiện muốn gặp là Henry Miller và chàng đã toại nguyện. Henry Miller nói chàng là hậu thân của thi sĩ Rimbaud, khiến chàng hốt nhiên đốn ngộ, bùng vỡ ra một điều gì ly kỳ vi diệu cực cùng và từ đó, chàng sống trên cung bậc xuất thần liên tục hân hoan với cái đang là.
Đang là thì “không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu” dù cuộc lữ bắt đầu khởi sự từ vô lượng kiếp rồi, dù có đi vòng quanh hết quả địa cầu này thì cũng đẻ thấy lại cái tâm hồn mình, như Henry Miller nói: “Vì chỉ có một cuộc phiêu lưu vĩ đại thôi, đó là đi vào bên trong mình và đi vào trong lòng mình thì thời gian, không gian, ngay đến hành động cũng không quan trọng gì cả.” Thì ra là vậy, thật đơn giản mà độc đáo vô cùng.
Cuộc đời Phạm Công Thiện nhiều huyền thoại ly kỳ ngoạn mục, chúng ta hãy nghe chính Phạm Công Thiện tự giới thiệu về mình lúc 25 tuổi trong tập thơ Ngày sinh của rắn, An Tiêm xuất bản 1966:
“Sinh vào năm rắn bên dòng sông Cửu Long. Vì tranh luận học vấn với giáo sư nên bỏ học trường lúc 13 tuổi. Viết sách lúc 14 tuổi, làm giáo sư sinh ngữ từ lúc 16 tuổi đến 20 tuổi tại những trường ở Sài Gòn, Mỹ Tho, Đà Lạt, Nha Trang.
Quyển sách khảo luận đầu tiên được xuất bản vào lúc 16 tuổi. Viết quyển Ý thức mới trong văn nghệ và triết học lúc 20 tuổi. Học triết lý tại trường đại học Yale để trình tiểu luận Ý niệm về chân lý trong tư tưởng Platon và Heidegger tại hội thảo triết lý ở Yale. Tiếp tục học triết lý tại trường đại học Colombia. Khinh bỉ giáo sư và bỏ học bổng của Viện Giáo Dục Quốc Tế, bị viện mời đi gặp bác sĩ phân tâm học, được mời khéo vào nhà thương điên, lại tranh luận với bác sĩ phân tâm học về giá trị và giới hạn của phân tâm học hiện đại, chỉ trích đời sống nông cạn của Mỹ quốc.
Sống lang thang lay lất ở xóm nghệ sĩ Greenwich Village tại New York, đã gặp Henry Miller tại Pacific Palisades ở California, được Henry Miller nhận là Rimbaud tái sinh lại ở thế kỷ XX. Sau đó được một văn sĩ Do Thái cho tiền để trốn qua Paris, không giấy tờ không hành lý, sống bơ phờ ở Bretagne.
Học văn chương tại trường đại học Rennes, khinh bỉ giáo sư rồi lại bỏ đi và sống lang thang lay lất khắp hang cùng ngõ hẻm ở Paris, làm chochard, đi ăn mày, ngủ dưới gầm cầu ngủ trên vĩa hè, đói lạnh long đong và bỏ làm luận án tiến sĩ tại Pháp. Được Henry Miller gởi tiền nuôi sống và được Henry Miller cho tiền rời bỏ Paris để sống lang thang giang hồ tại Thụy Sĩ, Ý Đại Lợi, Ba Tư, Hy Lạp, Thái Lan vân vân…
Lúc ở Paris thì nhập bọn với nhóm nghệ sĩ trẻ ở Popoff la cà vất vưởng ở xóm Saint Séverin và Saint Germaindes Pres. Đã gặp Krishnamurti hai lần tại Square Rapp. Hiện đang sống chờ đợi điên và chờ đợi chết.
Triệt để đứng ngoài tất cả ý thức hệ chính trị, đứng ngoài mọi sự tranh chấp tôn giáo, khinh bỉ tất cả văn hóa nhân loại, thù ghét tất cả mọi tổ chức xã hội. Vô cùng kiêu hãnh, chỉ đi một mình và tự nhận là thiên tài độc nhất của Việt Nam.”
Cùng nòi giống, cùng dòng máu Henry Miller, lấy giải thoát làm đề tài tối thượng nên Phạm Công Thiện cũng nhiệt liệt, hiên ngang theo dõi cuộc phiêu lưu thám hiểm vào nội tâm thầm kín, để khai phá ra những bí mật bên trong thế giới tâm linh sâu thẳm của chính mình. Cuộc lữ tư duy khủng khiếp từ khi thi sĩ tự nguyện làm lạc đà gánh nặng, băng qua những sa mạc cát trắng khô hạn, cháy bỏng vết hằn cay đắng, thê lương, vượt qua ngàn cơn bão lốc khốc liệt, kinh hoàng của nỗi đời dâu bể tan hoang cũng như từng say đắm, say sưa chén rượu hồng nhan, túy lúy càn khôn bổi hổi, rồi dấn thân làm sư tử oai phong lẫm liệt, đi đứng một mình, không bè nhóm, không đảng phái, không ý thức hệ, chỉ gầm rống vang động, làm rung chuyển khắp sông hồ dữ dội, hùng tráng, uy nghi, khí phách giữa tồn sinh bức bách, xuống biển lên đồi.
Rồi bất ngờ đến kỳ lạ, sư tử biến thành thằng bé trẻ dại hài nhi với nụ cười tươi tắn niềm hân hoan thơ ngây, thấy gì cũng rực ngời mới lạ, bằng con mắt trong veo, trong trẻo trinh nguyên xanh biếc trời thơ đất mộng không tên, như thi sĩ William Blake:
Ta không có tênTa ra đời mới có hai ngàyTa chẳng biết gọi mi bằng gì ?Ta hân hoanHân Hoan là tên taCầu cho hân hoan ngọt ngào ở mãi cùng miNiềm hân hoan xinhNiềm hân hoan ngọt ngào mới được hai ngàyNiềm hân hoan ngọt ngào là tên ta đặt cho miMi mỉm nụ cườiKhi ta ca hátCầu cho niềm hân hoan ngọt ngào ở mãi cùng mi
Trên cung bậc ngân vang ngút ngàn hân hoan sáng tạo đó, Phạm Công Thiện cùng tương ứng với triết gia Nietzsche về ba hóa thân: Lạc đà, sư tử và hài nhi. Trước hết tinh thần trở thành lạc đà, chuyên chở gánh nặng văn hóa, truyền thống… tiêu biểu những giá trị lỗi thời xưa cũ. Sư tử là chúa tể rừng xanh, tượng trưng cho ý chí, trí tuệ siêu việt, mạnh mẽ phá hủy tất cả những triết thuyết độc thần, hư vô, duy vật lỗi thời đó, làm sụp đổ hết thảy mọi thần tượng do con người sợ hãi dựng lên và cuối cùng là hài nhi hồn nhiên, là biểu tượng cho sự bắt đầu, khởi nguyên hoàn toàn mới mẻ, là một tiếng cười rỗng rang, một tiếng ừ chấp nhận thiêng liêng.
Hài nhi xem mọi sự như trò chơi, trò đùa vui vẻ, chẳng có chi phải trầm trọng, nặng nề, chẳng có gì phải van xin, tôn thờ, sợ hãi. Hài nhi chỉ biết yêu thương múa hát, hân hoan sáng tạo và sáng tạo thênh thang.
Thênh thang ca hát như Trang Tử dạo khúc Tiêu dao du bên bờ sông Dương Tử hay như Milarepa hát ca những lời thơ siêu thoát Gởi lại trần gian trên tuyệt đỉnh Hy Mã Lạp Sơn lạnh rờn tuyết trắng, hay như Huyền Giác sảng khoái hân hoan Chứng đạo ca tuyệt trần bất hủ hoặc như Tuệ Trung Thượng Sỹ hý lộng Phóng cuồng ca quá đỗi ngân nga và Phạm Công Thiện cười vang lên như tiếng gầm sư tử trầm hùng tự tại thong dong:
Anh vụt cười to động đóa hồngDịu dàng em rắc giữa hương nồngAnh ngồi chỗm dậy như sư tửVồ chụp bướm ngàn lúc rạng đông
Khi sư tử mà đùa rỡn, nhảy múa với chim ngàn hoa bướm là lúc mọi sự đã trở thành một trò chơi của hài nhi hý lộng, rất mực thuần nhiên thoải mái, thanh thản nhẹ nhàng như thi sĩ tâm sự khơi vơi về thái độ ứng xử giữa cuộc luân lưu sinh tồn linh động:
“Sống, ăn ở đời một cách khiêm tốn, tầm thường, nhỏ thấp, cung cách, cử chỉ lặng lẽ từ tốn, nhún nhường, không tìm cách tỏ ra rằng mình là quan trọng đối với con mắt thế gian, nhưng đằng sau bề ngoài tầm thường đó thì hãy để tâm thức mình bay vút, vượt lên trên tất cả quyền lục và danh vọng thế gian…
Chấp nhận tất cả những gì xảy đến đời mình với sự dửng dưng bình thản, mặc kệ giàu hay nghèo, mặc kệ khen hay chê, không thị phi phân biệt cái này với cái kia như đức hạnh và đồi bại, vinh quang và nhục nhã, tốt và xấu. Không đau đớn khổ sở và cũng không ân hận những gì đã qua, không sung sướng hớn hở và cũng không hãnh diện về những gì mình đã thực hiện thành tựu.
Ngó nhìn những quan điểm xung đột và những phát hiện sinh hoạt đa dạng của chúng sinh với lòng bình thản, khinh an và tâm thức siêu thoát. Phải hiểu rằng đời là thế và là thể điệu tác động không thể tránh được của mỗi một sinh thể. Hiểu như thế thì hãy luôn tỉnh thức, thanh thản trầm lặng. Ngó nhìn nhẹ nhàng xuống cuộc đời như một người đứng trên tột đỉnh núi cao nhất, nhìn ngó xuống những thung lũng và những ngọn núi nhỏ thấp trải ra dưới chân mình.” *****
Giữa muôn trùng cuộc lữ, trên con đường mây trắng tự do, gió trăng đồng vọng, rung ngân lên văng vẳng những cung đàn lã lướt dưới gót chân của chàng thi sĩ dị thường. Bước đăng trình vạn lý du, có đôi lúc cũng dừng gót chân lãng tử lại nghỉ ngơi một vài quán trọ dọc đường như giảng dạy triết lý, văn chương ở đại học Toulouse, Pháp quốc hay thuyết trình Thiền tông, Mật tông ở các đại học, thiền viện trên khắp miền viễn xứ California Hoa Kỳ.
Tiến sĩ Nhật Bản Nohira Munehiro khi làm luận án tốt nghiệp tiến sĩ, lấy đề tài Ý thức mới Phạm Công Thiện, tư tưởng gia Việt Nam, cho biết các nhà học giả uyên thâm xứ hoa Anh Đào đều tôn vinh, ca tụng Phạm Công Thiện là Long Thọ của Việt Nam. Từ năm 1966, mới 25 tuổi, Phạm Công Thiện đã nói về Long Thọ: “Theo Trung quán luận, thì sự nô lệ, sự phiền muộn, đau khổ, chấp trước…chỉ là vọng tưởng”.
Chúng ta bám chặt vào sự vật vào ý tưởng, vào con người vào hoàn cảnh, vào nguyên nhân vào kết quả, vào mục đích vào cứu cánh, vào phương tiện vào sống và chết: Chỉ vì vọng tưởng tạo ra những đặc tính và những hình ảnh mà chúng ta tưởng rằng có thực và bất di dịch…
Con người giải thoát làm việc thiện, cứu đời, độ thế, không phải để đạt đến kết quả nào ở đời này hay đời sau. Hành động của con người giải thoát là hành động không mục đích và không lý do. Lý tưởng Bồ tát thể hiện trong Đại bi là lòng thương không mục đích, vì còn mục đích là còn trói buộc vào nhân và quả. Trói buộc là nô lệ, là chấp nhân hoặc chấp quả, chấp ngã hoặc chấp pháp, chấp hữu hoặc chấp không. Hố thẳm chính là phá chấp và phá chấp triệt để…” *******
Tinh thần phá chấp triệt để ấy, thể hiện nhất quán qua toàn bộ tác phẩm Phạm Công Thiện từ thuở xa xưa cho đến bữa nay, nên các học giả Nhật Bản sánh Phạm Công Thiện với Long Thọ cũng là tương xứng, xác đáng. Đại văn hào Mỹ Henry Miller thì cho rằng, Phạm Công Thiện là hậu thân của Rimbaud, một thi sĩ tiên tri thấu thị của nước Pháp. Nhà thơ Giang Trần, nhà thơ Phan Tấn Hải bên Hoa Kỳ thì tôn vinh, tấn phong Phạm Công Thiện là bậc Bồ tát, còn riêng người viết bài này, đã từng hân hạnh được bắt tay, gặp mặt trò chuyện với Phạm Công Thiện ở Đại học Vạn Hạnh, vào một chiều mùa hạ năm 1969 thì vẫn xem Phạm Công Thiện là một Bồ tát nghệ sĩ đồng thời là một thi nhân, một thi sĩ với trọn vẹn ý nghĩa của danh từ.
Chính Phạm Công Thiện cũng thường mặc nhiên tự nhận mình chỉ là nhà thơ, một thi sĩ thuần túy mà thôi: “Ngôn ngữ của tôi là ngôn ngữ của thi sĩ, ai muốn hiểu sao đó thì cứ hiểu… Thơ là linh hồn của tất cả âm nhạc, hình ảnh của thơ là vô hình đột chuyển thành ra hiện hình và hiện ảnh: Hiện hình và hiện ảnh của thơ chính là hiện cảnh linh động, hiện thực hơn tất cả những cảnh sắc và phong cảnh hiện tiền… Thơ không nói về bất cứ cái gì cả, như vậy mới là tất cả. Thơ chỉ là thơ và thơ tự nói về thơ từ trong thơ đến trong thơ, cả cao và thấp, cả trong và ngoài, ở trên và dưới mặt đất, tất cả chỉ là thơ.”
Vâng, tất cả chỉ là thơ, khi thấy muôn sự muôn việc trên cõi đời này chỉ là thơ và thơ thôi thì lúc ấy mới bừng sáng rực ngời lên chân thực nghĩa vô lượng vô biên của Diệu Tâm thâm diệu, của Nhất Chân pháp giới, trùng trùng duyên khởi Hoa Nghiêm, thấy tất cả mọi sự đều tốt đẹp và tốt đẹp. Vì thế, cho nên thi nhân vẫn tiếp tục hân hoan sáng tác, sáng tạo vô ngần bất tuyệt miên man:
Ngó nhìn những quan điểm xung đột và những phát hiện sinh hoạt đa dạng của chúng sinh với lòng bình thản, khinh an và tâm thức siêu thoát. Phải hiểu rằng đời là thế và là thể điệu tác động không thể tránh được của mỗi một sinh thể. Hiểu như thế thì hãy luôn tỉnh thức, thanh thản trầm lặng. Ngó nhìn nhẹ nhàng xuống cuộc đời như một người đứng trên tột đỉnh núi cao nhất, nhìn ngó xuống những thung lũng và những ngọn núi nhỏ thấp trải ra dưới chân mình.” *****
Giữa muôn trùng cuộc lữ, trên con đường mây trắng tự do, gió trăng đồng vọng, rung ngân lên văng vẳng những cung đàn lã lướt dưới gót chân của chàng thi sĩ dị thường. Bước đăng trình vạn lý du, có đôi lúc cũng dừng gót chân lãng tử lại nghỉ ngơi một vài quán trọ dọc đường như giảng dạy triết lý, văn chương ở đại học Toulouse, Pháp quốc hay thuyết trình Thiền tông, Mật tông ở các đại học, thiền viện trên khắp miền viễn xứ California Hoa Kỳ.
Tiến sĩ Nhật Bản Nohira Munehiro khi làm luận án tốt nghiệp tiến sĩ, lấy đề tài Ý thức mới Phạm Công Thiện, tư tưởng gia Việt Nam, cho biết các nhà học giả uyên thâm xứ hoa Anh Đào đều tôn vinh, ca tụng Phạm Công Thiện là Long Thọ của Việt Nam. Từ năm 1966, mới 25 tuổi, Phạm Công Thiện đã nói về Long Thọ: “Theo Trung quán luận, thì sự nô lệ, sự phiền muộn, đau khổ, chấp trước…chỉ là vọng tưởng”.
Chúng ta bám chặt vào sự vật vào ý tưởng, vào con người vào hoàn cảnh, vào nguyên nhân vào kết quả, vào mục đích vào cứu cánh, vào phương tiện vào sống và chết: Chỉ vì vọng tưởng tạo ra những đặc tính và những hình ảnh mà chúng ta tưởng rằng có thực và bất di dịch…
Con người giải thoát làm việc thiện, cứu đời, độ thế, không phải để đạt đến kết quả nào ở đời này hay đời sau. Hành động của con người giải thoát là hành động không mục đích và không lý do. Lý tưởng Bồ tát thể hiện trong Đại bi là lòng thương không mục đích, vì còn mục đích là còn trói buộc vào nhân và quả. Trói buộc là nô lệ, là chấp nhân hoặc chấp quả, chấp ngã hoặc chấp pháp, chấp hữu hoặc chấp không. Hố thẳm chính là phá chấp và phá chấp triệt để…” *******
Tinh thần phá chấp triệt để ấy, thể hiện nhất quán qua toàn bộ tác phẩm Phạm Công Thiện từ thuở xa xưa cho đến bữa nay, nên các học giả Nhật Bản sánh Phạm Công Thiện với Long Thọ cũng là tương xứng, xác đáng. Đại văn hào Mỹ Henry Miller thì cho rằng, Phạm Công Thiện là hậu thân của Rimbaud, một thi sĩ tiên tri thấu thị của nước Pháp. Nhà thơ Giang Trần, nhà thơ Phan Tấn Hải bên Hoa Kỳ thì tôn vinh, tấn phong Phạm Công Thiện là bậc Bồ tát, còn riêng người viết bài này, đã từng hân hạnh được bắt tay, gặp mặt trò chuyện với Phạm Công Thiện ở Đại học Vạn Hạnh, vào một chiều mùa hạ năm 1969 thì vẫn xem Phạm Công Thiện là một Bồ tát nghệ sĩ đồng thời là một thi nhân, một thi sĩ với trọn vẹn ý nghĩa của danh từ.
Chính Phạm Công Thiện cũng thường mặc nhiên tự nhận mình chỉ là nhà thơ, một thi sĩ thuần túy mà thôi: “Ngôn ngữ của tôi là ngôn ngữ của thi sĩ, ai muốn hiểu sao đó thì cứ hiểu… Thơ là linh hồn của tất cả âm nhạc, hình ảnh của thơ là vô hình đột chuyển thành ra hiện hình và hiện ảnh: Hiện hình và hiện ảnh của thơ chính là hiện cảnh linh động, hiện thực hơn tất cả những cảnh sắc và phong cảnh hiện tiền… Thơ không nói về bất cứ cái gì cả, như vậy mới là tất cả. Thơ chỉ là thơ và thơ tự nói về thơ từ trong thơ đến trong thơ, cả cao và thấp, cả trong và ngoài, ở trên và dưới mặt đất, tất cả chỉ là thơ.”
Vâng, tất cả chỉ là thơ, khi thấy muôn sự muôn việc trên cõi đời này chỉ là thơ và thơ thôi thì lúc ấy mới bừng sáng rực ngời lên chân thực nghĩa vô lượng vô biên của Diệu Tâm thâm diệu, của Nhất Chân pháp giới, trùng trùng duyên khởi Hoa Nghiêm, thấy tất cả mọi sự đều tốt đẹp và tốt đẹp. Vì thế, cho nên thi nhân vẫn tiếp tục hân hoan sáng tác, sáng tạo vô ngần bất tuyệt miên man:
Tháng ngày làm thơ chơiHồn bay thẳng ra khơiBạch phát ngút ngàn tớiThu phong tắt nghẹn lờiLàm thơ lúc rửa chénNước chảy tuôn rỏn rẻnBột trắng sạch rêu đenBếp nhà rân tiếng énXin gọi đại là thơLàm lúc nào chẳng nhớCho một cô gái nhỏChưa từng gặp bao giờMuốn gì mà có ngayThì tai nạn vạ bayKhông thèm muốn gì nữaĐời tràn ngập thơ hay
Khi thơ hay bay ngập tràn mặt đất trần gian, thì ngôn ngữ Việt Nam cũng bay về ngợp trời xanh bát ngát, làm trang nghiêm cho nụ cười thanh tịnh, quang minh tính thể. Thế là trên ngõ về im lặng, người thi sĩ kỳ tuyệt của chúng ta đã xuống tận hố thẳm cũng như đã lên tột đỉnh cao chất ngất của tâm linh và chợt bừng ngộ thấy ra toàn thể trò đời chỉ là một cuộc đại hòa điệu chơi tối thượng, một trận du hý tam muội lồng lộng, phiêu bồng. Sống là chơi, chết là chơi, yêu là chơi, thương là chơi, vui buồn, sướng khổ là chơi, có không, còn mất là chơi, hơn thua, phải trái là chơi, thành cộng, thất bại là chơi, chiêm bao, mộng mị là chơi, tỉnh thức, thực tế, thực tại là chơi, phiêu bạt giang hồ khắp thế giới là chơi, giảng dạy triết lý, thi ca, thiền học là chơi, biết nhiều ngôn ngữ ngoại quốc là chơi, thương yêu kiều nữ là chơi, làm đại đức, thiền sư Nguyên Tánh là chơi, làm hành giả Mật tông là chơi, làm văn nghệ sĩ là chơi, làm thơ làm thẩn cũng là chơi chơi hết thảy mà thôi. Ơi chao ! Một cuộc đại hòa điệu chơi trùng trùng vô thủy vô chung giữa mênh mông vô tận, bất khả tư nghì…Án ma ni bát di hồng. Án ma ni bát di hồng. Án ma ni bát di hồng… Sống là như thế để chơi. Chết là như vậy thấy rồi Như Như. Đến đi tùy thuận kể từ. Sát na thấu triệt thiên thu cỗi nguồn.
Cuộc đại hòa điệu chơi tới ngày 8. 3. 2011 tại Houston, Texas Hoa Kỳ, thi sĩ thong dong qua chơi bên miên không có đâu. Trước giờ phút Trên tất cả đỉnh cao là lặng im này, không gì hơn người viết xin đọc vài bài thơ tiễn biệt Phạm Công Thiện về chốn miền thiên thu vĩnh viễn:
THÊNH THANG PHẠM CÔNG THIỆNLãng tử phiêu bồng không chỗ trúKhông chốn dung thân giữa phong trầnNên đi thỏa thích trời vô địnhĐỉnh cao hố thẳm ngút phù vânDốc hủ Đông Tây tràn tư tưởngNghiêng bầu kim cổ ngập quang minhUống cạn ngàn năm bao tinh túyĐại hòa điệu chơi với muôn tìnhTình thiên thu ấy đầy ứng hiệnXuất thần nhập cốt rộn bừng sayThắp lửa hồn thiêng ngời tỏa sángBát ngát điều chi chợt hiển bàyCười thênh thang quá đường không lộTung hoành ngang dọc khắp năm châuBước chân nhẹ nhàng về im lặngMà nghe rung động cả địa cầuBỒ TÁT NGHỆ SĨNgày sinh của rắn chao ơi !Mở ra cuộc lữ khắp Trời tháng tưNhững bước chân nhẹ nhàng… từIm lặng hố thẳm thiên thu cỗi nguồnÝ thức bùng vỡ trào tuônBay đi những cơn mưa phùn chứa chanHố thẳm tư tưởng ngút ngànĐi cho hết một đêm hoang vu… nàyCùng Henry Miller sayVới Rilke Nguyễn Du… đầy đủ ghêÝ thức mới văn nghệ… vềNghìn phương muôn cõi thấy nghe ruột ràNghe từ Bồ Đề Đạt MaTrên tất cả đỉnh cao là lặng imHuyền ngôn diệu ngữ bao niềmChảy và cháy mãi rực tim lửa hồng
Sau cùng, viết thêm vài dòng: Phạm Công Thiện có tám anh em, Phạm Công Thiện là anh cả. Gia đình theo Thiên Chúa giáo, nhưng Phạm Công Thiện đã chuyển hóa cả cha mẹ và bảy đứa em qua Phật giáo. Phạm Chí Hùng, đứa em thứ tư cũng xuất gia, đệ tử thầy Trí Thủ (năm 1969, tôi có gặp Phạm Chí Hùng tại chùa Hải Đức, Nha Trang.)
Sau 1975, gia đình Phạm Công Thiện qua Úc Châu sống định cư, chỉ còn Phạm Ngọc Thanh, cô em gái ở lại, dạy học tại Mỹ Tho.
Mỗi lần có dịp đi ngang qua Mỹ Tho, tôi đều ghé nhà thăm chơi. Phạm Ngọc Thanh niềm nở, thân mật, gần gũi, vui lòng tiếp chuyện, kể cho nghe nhiều kỷ niệm xa xưa, thời kỳ Phạm Công Thiện còn thơ ấu, thanh xuân…
Một chiều thả bộ, bước rong rêu dọc ven bờ sông Tiền Giang, nhánh sông chảy ngang thành phố Mỹ Tho, tôi mường tượng bến sông này, bờ nước nọ, nơi thuở ngày xưa xa ấy, Phạm Công Thiện thường trốn học, bỏ nhà ra đây tắm sông, bơi lội…
Tôi liền mần bài thơ Về Mỹ Tho nhớ Phạm Công Thiện, để nhớ lại những tác phẩm tâm đắc mà anh đã viết tặng cho cuộc đời:
Ngày sinh của rắn chao ơi!Mở ra cuộc lữ khắp Trời tháng tưNhững bước chân nhẹ nhàng…từIm lặng hố thẳm thiên thu cỗi nguồnÝ thức bùng vỡ trào tuônBay đi những cơn mưa phùn chứa chanHố thẳm tư tưởng ngút ngànĐi cho hết một đêm hoang vu…nàyCùng Henry Miller sayVới Rilke Nguyễn Du…đầy ắp mêÝ thức mới văn nghệ…vềNghìn phương muôn cõi thấy nghe ruột ràNghe từ Bồ Đề Đạt MaTrên tất cả đỉnh cao là lặng imHuyền ngôn diệu ngữ bao niềmChảy và cháy mãi rực tim máu hồng…
Tâm Nhiên
Nguồn:
http://trietvan.com/thanhuu/phamcongthien.htm
.............
* Phạm Công Thiện. Ý thức mới trong văn nghệ và triết học. Tái bản lần thứ ba. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1966
** Phạm Công Thiện. Henry Miller. Phạm Hoàng xuất bản, Sài Gòn 1969
*** Phạm Công Thiện. Triết lý Việt Nam về sự vượt biên. Trần Thi xuất bản, Hoa Kỳ 1995
**** Lê Khắc Thanh Hoài. Chuyện một người đàn bà…năm con. Thời Đại xuất bản 2012
***** Phạm Công Thiện. Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng. Phương Đông xuất bản 2008
****** Phạm Công Thiện. Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất. Trần Thi xuất bản, Hoa Kỳ 1988
******* Phạm Công Thiện. Hố thẳm tư tưởng. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1966
Thơ Phạm Công Thiện ( chữ nghiêng ) trích trong các tác phẩm:
Ngày sinh của rắn. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1966
Trên tất cả đỉnh cao là lặng im. Văn Hóa Sài Gòn xuất bản 2009
Ngày sinh của Rắn. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1966
Trên tất cả đỉnh cao là lặng im. Văn Hóa Sài Gòn xuất bản 2009
* Phạm Công Thiện. Ý thức mới trong văn nghệ và triết học. Tái bản lần thứ ba. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1966
** Phạm Công Thiện. Henry Miller. Phạm Hoàng xuất bản, Sài Gòn 1969
*** Lê Khắc Thanh Hoài. Chuyện một người đàn bà…năm con. Thời Đại xuất bản, Sài Gòn 2012
**** Phạm Công Thiện. Triết lý Việt Nam về sự vượt biên. Trần Thi xuất bản, Hoa Kỳ 1995
***** Phạm Công Thiện. Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng. Phương Đông xuất bản, Sài Gòn 2008
****** Phạm Công Thiện. Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất. Trần Thi xuất bản, Hoa Kỳ 1988
******* Phạm Công Thiện. Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử. Trần Thi xuất bản, Hoa Kỳ 2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét