CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2022

HÀNH TRÌNH THƠ TRẦN THƯƠNG BÁ, CHẶNG 3: “TẬP VÔ NGÔN KINH” – Đỗ Tư Nhơn

Như một lời cám ơn gởi về miền thiên thu vĩnh hằng – nơi yên nghỉ của nhà thơ Trần Thương Bá, người đã để lại cho cuộc đời những tập thơ có sức ngân vọng, gõ cửa trái tim những người đồng điệu tri âm. Ba tập thơ của anh hãy còn đây trên “Hành Trình Thơ Trần Thương Bá”, nén tâm hương tưởng nhớ Anh muộn màng, sau 20 năm anh xa lìa trần gian.

Nhà giáo - nhà thơ Trần Thương Bá
(1940- 2002)
 
Từ tập Tình Huế đến tập Thơ Ngây Ngô, hai chặng trên con đường thơ Trần Thương Bá trải qua 2 thi pháp: thi pháp của chủ nghĩa Lãng mạn đến thi pháp của chủ nghĩa Tượng trưng đều mang sắc thái phương Tây.
 
Giờ đây tập thơ Vô Ngôn Kinh (VNK) đang mở ra trước chúng ta một chặng mới, từ hình thức đến nội dung.
 

Thứ Năm, 28 tháng 4, 2022

NHỮNG CUỐN SÁCH CŨ “SÀI GÒN TRƯỚC BẢY LĂM” NAY Ở ĐÂU !? - Nguyễn Vĩnh Nguyên


Quán Sách Mùa Thu, một địa chỉ bán sách cũ tại Sài Gòn.
 
Có cuốn mới tinh, có cuốn rách bìa, đa số thì ố vàng và đã nhạt màu mực. Mỗi cuốn sách một số phận, trôi nổi qua biết bao biến cố, bỗng một hôm trở về với người sưu tầm, người đọc như những báu vật của thời gian… Gọi đó là “sách Sài Gòn trước Bảy Lăm.” Trên đường sách Sài Gòn giữa Quận Một ngày nay, có mấy kiosk bán sách cũ Sài Gòn xuất bản trước 1975. Ngoài sách, các ấn phẩm của thời kỳ này như báo chí, bản đồ, post-card và tờ nhạc cũng xuất hiện trở lại một cách công khai.
 

HÀNH TRÌNH THƠ TRẦN THƯƠNG BÁ 2 “LA POESIE CANDIDE, THƠ NGÂY NGÔ” – Đỗ Tư Nhơn


Nhà giáo - nhà thơ Trần Thương Bá
(1940- 2002)

Có thể nhận định rằng hành trình thơ Trần Thương Bá được thể hiện qua ba tập thơ, đánh dấu mốc thời gian chín muồi cho cảm hứng sáng tạo, từ đó câu chữ bắt đầu.
 
Tập thơ TÌNH HUẾ là chặng đầu của dàn hợp xướng, nhà thơ chọn thủ pháp, giọng điệu của chủ nghĩa lãng mạn. Qua đó nhằm biểu hiện “cái tôi trữ tình” rất đỗi yêu thương cảnh vật,  con người xứ Huế nên thơ, kiều diễm. Đồng thời trong phần cuối, tác giả đã tạc nên một tượng đài bằng ngôn ngữ thơ đầy xót xa thương tiếc ban đầu, sau đó đã hóa giải bằng cái nhìn đầy thăng hoa khiến cho hình tượng người vợ quá cố trở nên lung linh mầu nhiệm như thiên thần giữa thiên nhiên đất trời “Áo em mờ ảo màu hoa, Tóc em bay giữa bao la cõi trời”, và anh tin vào thuyết luân hồi của Phật Giáo “Anh biết rồi em sẽ trở về”.
 

NHỮNG BÀI THƠ CHO THÁNG TƯ #1 – Nguyên Lạc


   
                          Nhà thơ Nguyên Lạc


VÀNH TANG THÁNG TƯ ĐEN
 
"Vành tang cho Tháng Tư Đen
Xin cho người cõi Vĩnh Hằng ngủ yên
Quên đi thù hận oan khiên
Để hồn thanh thản về miền hư vô" [*]
 
Quên đi!
Có nghĩa chưa quên
Xin cho yên ngủ
Oan khiên vẫn đầy!
Vành tang ta khóc ai đây?
Bạn bè chiến hữu từ ngày tang thương!
Thì thôi tụng khúc vô thường
Tế Văn Thập Loại giải oan cho hồn
 
Hồn ơi vẫn nhớ phải không!
Tháng Tư tan tác đoạn trường mất nhau
Tháng Tư cuồng nộ ba đào
Tháng Tư chia biệt người vào trùng dương
Tháng tư trại thảm núi rừng
10 năm trở lại dã nhân ngỡ ngàng
Tháng Tư tình đó ly tan
Tháng tư thống hận oan khiên một trời
Tháng Tư vĩnh biệt tình tôi
Tháng Tư vỡ mộng tàn rồi thanh xuân
 
Mùa về ngấn lệ lưu vong
Bao năm rồi đó hết mong lời thề!
Tháng Tư một bóng chiều tê
Bạn bè chiến hữu hãy về với tôi
Đắng cay rượu rưới tôi mời
Tế Văn Thập Loại những lời giải oan:
 
"Còn chi ai quí ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?" [**]
.
Về đâu người đã về đâu?
Đã quên hay nhớ nỗi sầu tháng Tư?!

............

[*] Thơ Dư Mỹ
[**] Lời trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh/ Văn tế chiêu hồn - Nguyễn Du
 

“CHẠM VỪA THÁNG TƯ” THƠ VÕ MIÊN TRƯỜNG, CHẠM VÀO TIM THƠ - Châu Thạch


   
               Nhà thơ Võ Miên Trường


CHẠM VỪA THÁNG TƯ…
             
Với tay chạm nắng lưng trời
Màu buồn đổ sóng xuống đời an nhiên
Mùa đang son những ngọt mềm
Tháng tư vừa chạm đã nghiêng phía chiều…
                  
                                       Võ Miên Trường

 
 Nhà bình thơ Châu Thạch 


“CHẠM VỪA THÁNG TƯ” THƠ VÕ MIÊN TRƯỜNG, CHẠM VÀO TIM THƠ
                              Châu Thạch
 
Chữ chạm là một động từ có nhiều nghĩa: Khắc đục lên vật cứng, gặp nhau một cách bất ngờ, gây tổn thương tinh thần hay vật chất cho người khác. Trong bài thơ “Chạm Vừa Tháng Tư” của Võ Miên Trường, có lẽ ta phải hiểu theo nghĩa Chạm chỉ là đụng nhẹ vào mà thôi. Tác giả dùng chữ “Chạm” như để bày tỏ sự trân trọng một tháng tư mà mình quý mến. Nhà thơ đã chạm vào tháng tư nhưng chỉ “chạm vừa” là một cử chỉ mang nhiều trân trọng, e dè, nâng niu, yêu thương và ngại ngùng.
 

MƯA ĐẦU HẠ, SẮC TÍM BẰNG LĂNG – Thơ Tịnh Bình





MƯA ĐẦU HẠ
 
Đậu về trên nhánh hạ
Mưa đầu mùa ngây thơ
Ngai ngái hương đất ẩm
Dậy lời ve dại khờ
 
Ban mai tìm gió mới
Đường quê tràn tơ non
Cỏ xanh bừng thức giấc
Giọt sương xoe mắt tròn
 
Mẹ về phiên chợ vãn
Khói bếp quyện cơm sôi
Canh tập tàng nấm mối
Tia nắng reo đầu hồi
 
Ướt tiếng rao ngang ngõ
Bờ giậu hoa giấy phơi
Sắc tím hồng bung nở
Giọt mưa rơi thành lời...
 

Thứ Tư, 27 tháng 4, 2022

TÌNH HUẾ, TRONG HÀNH TRÌNH THƠ TRẦN THƯƠNG BÁ – Đỗ Tư Nhơn


Nhà giáo - nhà thơ Trần Thương Bá
(1940- 2002)
 
I. Lời trao gởi tin yêu.
 
Nhà thơ Trần Thương Bá quê ở Huế, đã có thời gian dạy Việt văn tại trường trung học Nguyễn Hòang Quảng Trị (1964-1969). Anh đã để lại những tình cảm sâu đậm và thân quí trong lòng học trò thuở ấy. Thời gian chập chùng, cuộc đời dâu bể, kiếp người nổi trôi…
 

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2022

MỘT VÀI KỶ NIỆM VỚI BÙI GIÁNG - Mai Thảo

Thuở sinh tiền, khi nói đến thơ, nhà văn Mai Thảo thường nhắc nhiều đến Vũ Hoàng Chương và Bùi Giáng. Mỗi người một phong cách, nhưng theo Mai Thảo, đó là những “ngôi sao Bắc Ðẩu trên vòm trời thơ ca của ta”. 
Chúng tôi cho đăng lại bài viết này (Văn, số 26 tháng 8/1984, USA) như một hình thức tưởng nhớ đến một người yêu thơ rất mực: nhà văn Mai Thảo, và một người làm thơ tài hoa cũng rất mực: thi sĩ Bùi Giáng. 
Cả hai đã ra đi. 
Bên kia thế giới, có lẽ nhà văn Mai Thảo lại có dịp mời thi sĩ Bùi giáng một chai bia lớn, và lại sẽ được nghe ông nói, bằng chất giọng Quảng Nam đặc sệt: “vui thôi mà”, như độc giả sẽ thấy, trong bài viết dưới đây.
 
                                                                                          HỢP LƯU
 


MỘT VÀI KỶ NIỆM VỚI BÙI GIÁNG 
                                                                     Mai Thảo
 
Đặc San Hợp Lưu (số 44, tháng 12/1998 tháng 1/1999)
 
Nhiều buổi chiều Sài Gòn, tôi chẳng còn có thể nhớ đích xác vào những năm nào, đâu như năm 1962, đâu như năm 1965 (nếu sai, nhờ hai anh Cung Tiến, Phạm Công Thiện nhớ lại dùm cho) tôi thường được mời tới những họp mặt ăn nhậu trên căn lầu ngăn nắp, thoáng mát của thầy Thanh Tuệ ở đường Lý Thái Tổ.
 
Mỗi họp mặt với Thanh Tuệ, hồi đó là giám đốc nhà xuất bản An Tiêm, là nhà sư trẻ tươi tắn chưa cởi áo hồi tục, thường vì một cuốn sách. Một cuốn sách mới, vừa in xong chưa ráo mực. Và trước khi gởi sách vào nắng mưa đời, họp mặt An Tiêm với thân hữu là một tiệc rượu lạc thành cho sách.
 

VÀI SO SÁNH VỀ TRUYỀN THỐNG TƯ TƯỞNG ĐÔNG –TÂY - Phan Khôi.

Nguồn:
Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, số 774 (27/9/1928) & số 776 (2/10/1928).
 
Học giả Phan Khôi 
(1887-1959).

Tây phương gồm cả các nước châu Âu, châu Mỹ mà nước Pháp là một; Đông phương gồm cả các nước châu Á, mà nước ta là một. Tư tưởng của Tây phương phát nguyên từ Hy Lạp, La Mã, Hê-bơ-rơ, song bây giờ đã hỗn thành ra một nền tư tưởng Tây phương, nên ở đây gọi chung là tư tưởng Tây phương. Tư tưởng Đông phương có hai tua lớn, một là Ấn Độ, một là Tàu, mà ta thuộc về tua Tàu, nên ở đây chỉ lấy Tàu làm trọng.
 

KÝ ỨC 30-4: KHI CHÉN KIỂU GẶP CHÉN SÀNH – Nguyễn Trường Trung Huy (TTNH)


Hà Nội 1985 (ảnh: Christopher Pillitz/Getty Images)
 
Sau 1975, ai cũng biết, đa số người miền Bắc ồ ạt vào Nam hơn là dân miền Nam ra Bắc. Ngoại trừ những nhân vật đặc biệt với công tác đặc biệt có giấy phép, còn hầu hết thường dân bị cấm, nhất là đối với thành phần “ngụy quân, ngụy quyền” như tôi.
 
Chỉ có ở miền Bắc XHCN!
 
Cho đến khoảng năm 1979-1980, lịnh cấm ra Bắc vẫn còn hữu hiệu. Tôi, do một nhân duyên, bà con phía chồng cũng như nhà mình đều ở ngoài Bắc. Tôi có người anh họ bên chồng sau 1975 vào Sài Gòn làm cơ quan nhà nước. Anh lại là trưởng đoàn trong chuyến công tác ra Bắc năm đó. Nhờ vậy mà tôi xin quá giang anh (xe tải) ra Bắc thăm chồng cải tạo. Anh làm cho tôi một giấy công nhân gõ rỉ của nhà máy theo đoàn công tác.
 

Thứ Hai, 25 tháng 4, 2022

CUỘC ĐỜI U TỐI ÍT AI BIẾT CỦA NÀNG MONA LISA ĐỜI THẬT

 
Giai nhân trong một bức tranh nổi tiếng nhất thế giới mang một truyền thuyết lạ lùng về cuộc đời của nhân vật trong tranh và nghệ thuật sáng tạo của họa sĩ. Những bí ẩn này vẫn được các nhà nghiên cứu phân tích để tìm hiểu sâu thêm.

Bức họa Mona Lisa. Ảnh: I.T

Cuộc đời u tối ít ai biết của nàng Mona Lisa đời thật
 
Bức chân dung nàng Mona Lisa không chỉ là tác phẩm tiêu biểu cho cuộc đời danh họa Leonardo da Vinci mà còn là một tuyệt tác huyền thoại của lịch sử hội họa. Sau hàng trăm năm, nụ cười đầy mơ hồ trên môi nàng Mona Lisa vẫn được hậu thế bàn luận, phân tích. Thế nhưng, không phải ai cũng biết về cuộc đời thực tế bên ngoài bức họa của quý bà người Ý này.
 

CHUYỆN TÌNH CỦA NHÀ VĂN VŨ BẰNG VÀ CÔ VỢ HƠN 7 TUỔI

 Nhiều nhà văn nổi tiếng có câu chuyện tình yêu khiến người ta phải xuýt xoa sao mà lãng mạn quá, văn thơ thế. Tuy nhiên, cũng có những chuyện tình còn khiến người ta phải xót xa thật nhiều.
Trai tân quyết cưới bằng được người vợ qua 1 đời chồng
Mở đầu cuốn sách Thương Nhớ Mười Hai, nhà văn Vũ Bằng viết: "Thương không biết bao nhiêu, nhớ không biết ngàn nào người bạn chiếu chăn Nguyễn Thị Quỳ. Thành mến tặng Quỳ cuốn sách này để thay mấy lời ai điếu".



Nhà văn Vũ Bằng sinh năm 1913 tại Bình Giang, Hải Dương. Năm 16 tuổi, ông được in bài báo đầu tiên và bắt đầu hành trình cầm bút.
 
Năm 22 tuổi, ông kết hôn. Người vợ mà ông chọn là bà Nguyễn Thị Quỳ - đến từ miền quê Quan họ. Bà Quỳ hơn Vũ Bằng 7 tuổi, đã có một đời chồng và 5 đứa con riêng.
 
Chồng trước của bà là một nhà buôn nổi tiếng tại Hà Nội. Ông đam mê nghe hát cô đầu. Cũng vì mê một cô đầu mà ông hắt hủi bà Quỳ, dẫn đến ly hôn. Một thời gian sau, bà gặp Vũ Bằng và hai người nảy sinh tình yêu.
 
Vì sự chênh lệch ấy nên đương nhiên, mối quan hệ này đã bị hai bên họ hàng phản đối. Tuy vậy, Vũ Bằng đã quyết phải cưới được bà Quỳ làm vợ.
 

DUNG THI VÂN, BÀI THƠ NGẮN KHÔNG ĐỀ VÀ NỖI ĐAU PHÙ VÂN - Châu Thạch


   
            Nhà thơ Dung Thị Vân

 
Chiều vạn dặm côn trùng còn biết khóc 
Huống chi ta tâm huyết đoạn thế nhân 
Tình nhân ơi có nghe mùi hương tóc 
Đâu ngọc ngà hay chỉ thoáng phù vân 
             
                                     Dung Thị Vân
 
 
DUNG THI VÂN, BÀI THƠ NGẮN KHÔNG ĐỀ VÀ NỖI ĐAU PHÙ VÂN 
                                                                                          Châu Thạch
      
Dung Thị Vân, một nhà thơ đã xuất bản nhiều tác phẩm được bạn đọc mến mộ và giới văn học khen ngợi đã nhiều, Viết về bốn câu thơ có lẽ tác giả ứng tác ngay cho một tấm hình đăng trên facebook của mình, tôi nghĩ dư thừa. Thế nhưng, thật tình tôi không viết vì Dung Thị Vân mà tôi viết vì tôi, để thổ lộ những cảm xúc xảy ra trong lòng tôi bởi bốn câu thơ mang vẽ đẹp của nỗi buồn trầm kha mà khó có nhà thơ nào đem vào được trong thơ mình như Dung Thị Vân.

TẤM CHĂN NHÂN DUYÊN – Tùy bút của Trần Mai Ngân

 
Tác giả Trần Mai Ngân


Tấm nhân duyên làm lòng người hạnh phúc nhất hay tan nát nhất đó là gì? Tình yêu ư… không phải!
Đó là gia đình - là chồng, là vợ là những đứa con thân yêu nhất!

TIỂU THUYẾT MỚI VỀ NHỮNG CÔ GÁI MÀ MAO TRẠCH ĐÔNG TỪNG QUAN HỆ - Vanessa Hua, Nguyễn Thị Kim Phụng biên dịch

 Nguồn: 
Jonathan Chatwin, “Novel gives voice to the girls Mao Zedong had sex with, in the powerful form of a confessional
 

Dưới đây là bài bình luận về cuốn sách sắp xuất bản Forbidden City (Tử Cấm Thành) của Vanessa Hua, Ballantine Books.
 
“Giống như hộp đựng trong hộp, và câu đố trong câu đố” – đây là cách nữ nhà văn người Mỹ gốc Hoa mô tả bản đồ Bắc Kinh cũ. Nằm ở trung tâm của các ô vuông đan xen vào nhau là Tử Cấm Thành, nơi hoàng đế cai trị và sinh sống, các sảnh hành lễ được xây dọc theo “long mạch” chạy từ bắc xuống nam, đi xuyên qua trung tâm thành phố.
 
Nằm về phía tây của cung điện, nhưng vẫn là một phần của “Hoàng thành,” là các hồ nước và vườn cây của Trung Nam Hải – “biển miền trung và miền nam” – nơi hoàng đế và các thành viên hoàng gia có thể thoát khỏi sự ngột ngạt của những cung điện có tường vây kín của Tử Cấm Thành, hoặc đơn giản là có thể tránh được cái nóng mùa hè bên dưới bóng râm của một cây liễu.
 

Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2022

TÔI LÀ NGƯỜI NƯỚC NÀO ??? – Chuyện phiếm của Đỗ Chiêu Đức

Bài viết dưới đây của một người Việt gốc Hoa - học giả Đỗ Chiêu Đức. Khởi đầu theo tác giả, bài viết chỉ là “Đôi Điều Tâm Sự” mình gởi cho bạn bè đọc chơi, nhưng không ngờ được nhiều người thích đăng lên mạng. Chúng tôi thấy bài viết hay, dí dỏm, chân thực nên mạn phép tác giả chia sẻ cho mọi người cùng đọc.
 
        
                                     Đỗ Chiêu Đức và phu nhân
             
 Dĩ nhiên, tôi là Đỗ Chiêu Đức, được sanh ra ở xã Thường Thạnh và lớn lên ở xã Thường Thạnh Đông, chợ vườn chồm hổm ở Cái Chanh, 5 giờ sáng nhóm đến khoảng 9-10 giờ sángthì tan chợ. Cái Chanh cách Thị Trấn Cái Răng khoảng 5 cây số đường đất với cầu ván đóng đinh cũng có, mà cầu tre lắt lẻo cũng nhiều, như câu hát ru em mà tôi thường nghe:
 
Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi....
       
Nên mặc dù là người Việt gốc Hoa (Triều Châu), tôi chỉ biết gọi Cha Mẹ Anh Chị bằng Pá Má Hia Chế và các từ thông dụng như Ăn cơm, ăn cháo là "Chìa bừng, chìa múi..." ra, thì toàn bộ sinh hoạt gia đình đều bằng tiếng Việt của Nam kỳ Lục Tỉnh. 7 tuổi vào trường làng học lớp Đồng Ấu, học đánh vần với quyển Con Gà Con Chó, với các thành ngữ sau khi đã qua vần ngược là:
 
* Dùi đánh đục, đục đánh săng.
* Ách giữa đàng, mang vào cổ.
* Ăn bữa giỗ, lỗ bữa cày.
* Đặng buồng nầy, xây buồng nọ.
* Ăn thì có, ó thì không...

NHỚ CHUYỆN TRÂU – Ugno.Vn (Nguyễn Phước Yên)

 

Đầu năm con trâu 2021, tình cờ nhẩm câu ca dao “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” bổng dưng có ông già nhớ lại chuyện con trâu từ những thuở nào. Dấu hiệu của người đến kì lẩn thẩn! Ông già tự nhủ thầm: "Thì ra mình cũng đã già rồi chăng"? Ông tuổi con gà. Bà tuổi con trâu. Lão thầy tướng số ngày xưa bảo tuổi ông bà thuộc cung tam hạp Dậu, Sửu, Tị... tốt lắm! tốt lắm!... Đúng là chỉ tốt phần ông. Phần bà đã hơn 70 còn phải làm kiếp "đi bừa" như trâu để phục vụ con gà lười bươi móc, nghèo xác xơ.

ĐẠI NGÃI QUÊ TÔI: TÀI NGUYÊN, ĐẤT NƯỚC & CON NGƯỜI – Nguyên Lạc

 


Lời dẫn nhập:
 
Thi sĩ Trần Phù Thế vừa gởi tặng tôi- Nguyên Lạc 3 tập thơ: Cõi Tình, Giỡn Bóng Chiêm Bao và Gọi Khan Giọng Tình- Thư Ấn Quán của thi văn sĩ Trần Hoài Thư xuất bản.
Tôi đã từng giới thiệu rất rõ về thi sĩ Trần Phù Thế trong bài viết đã đăng trên các trang trong cũng như ngoài nước VỀ CHỮ “BẬU”.
 
Cảm ơn tấm thịnh tình của thi sĩ, tôi xin trích dẫn vài bài thơ tiêu biểu trong các thi tập của anh và nhân dịp xin được giới thiệu đến các bạn quê hương thân mến của chúng tôi: xã Đại Ngãi, huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng/ Ba Xuyên.
Anh Trần Phù Thế cùng quê Đại Ngãi và cùng học Trung học Hoàng Diệu, Sóc Trăng với tôi, thuộc lớp đàn anh.
 
                                                                                         Nguyên Lạc
 


(Hình chụp sách thơ Trần Phù Thế – Thư Ấn Quán của thi văn sĩ Trần Hoài Thư tái bản)
 

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2022

CHA CỦA NGƯỜI TA, LÀ BA CỦA TÔI – Truyện ngắn của Trần Thiện Phi Hùng



Ông Ta gặp Tôi sau khi Tôi mở mắt chào đời chỉ mới có một đêm; chỉ nhìn Tôi có một phút đã nghĩ xấu về Tôi là “cái môi chu chu chắc lớn lên sẽ hỗn”. Một Phút mà Ông Ta đã đưa ra quyết định tương lai cho một đời người thì thật đúng là dân nhà binh nhiều năm quân ngủ; dứt khoát nhanh chóng mặc dù không phải là việc đánh nhau trên chiến trường gần kề giữa cái sống và chết trong gang tấc nhưng đây lại là Tình Người cao cả. Con Bé mới sinh mang cái tội Lai Mỹ nên người mang nặng đẻ đau sau 9 tháng 10 ngày đã nhẫn tâm cho người khác và nếu không có được có người có tình người cao cả thì Tôi phải vào Viện Mồ Côi. Vợ của Ông ta sinh con gái cho Ông ta chỉ trước Tôi có 4 tiếng và Tôi thì bị Mẹ rao “Cho Con”; chỉ nhìn Tôi một phút rồi trở về phòng của Vợ nói lên quyết định xin con nuôi và Vợ không thuận nhưng cũng không phản đối; thế là thủ tục cho Con của mẹ Tôi và xin con của Cha Tôi được thỏa thuận trên giấy trắng mực đen được đưa cho Bà Mụ và cũng là Chủ phòng sinh quân đội Tỉnh Khánh Hòa. Thủ tục chưa kịp hoàn tất; Mẹ của Tôi đã bỏ Tôi ra đi. Tôi còn say ngủ Tôi nào có biết gì; đến cả mắt của Tôi còn chưa mở. Tôi được Cô Mụ bồng sang giao cho Bà Mẹ thứ Hai. Khi Tôi mở mắt được để nhìn đời thì nét mặt cương nghị đó đã in sâu vào tâm não Tôi từ ngày đó và có lẽ là mãi mãi không bao giờ phai nhạt trong Tôi: Ba của Tôi.

CON GÁI CỦA NGƯỜI TA.! - Truyện ngắn của Trần Thiện Phi Hùng



       
Con gái của người ta sau 24 giờ sinh ra đã trở thành con gái của tôi, và chỉ sinh sau con gái của tôi có 4 giờ tại Bảo Sinh Viện Quân Đội Thành Phố Nha Trang năm 1972.
 
Mẹ của nó còn trẻ lắm, nhưng có vẻ lanh lợi sành đời. Cô ta sinh xong mạnh khỏe đi đứng bình thường chứ không nằm liệt như bà vợ tôi. Cô ta nói với vợ tôi cô ta là vợ của một Trung Úy Biệt Kích. Anh ta ít khi về nhà và công tác ở đâu không bao giờ nói. Cô ta đi làm sở Mỹ ở Chu Lai, vì sinh kế sao đó nên "Nhảy dù" với Mỹ. Tai nạn có thai ngoài ý muốn nhưng không biết con của chồng cô ta hay của Mỹ nên cứ sinh con xong rồi tính. Con chồng thì để nuôi, còn con Mỹ thì cho.
 
Nghe vợ nói lại, tôi sang phòng cô ta gõ cửa xin vào xem đứa nhỏ ra sao. Trong bóng đèn mờ của căn phòng, con bé nằm bó mình trong khăn lông, chỉ lòi cái mặt da trắng đỏ và cái miệng nhỏ xíu hai môi như chu ra làm tôi nghĩ "Con bé nầy chắc sau nầy hỗn lắm đây". Tôi không nói gì với cô ta mà về phòng bảo bà vợ tôi: "Mình xin con bé nuôi luôn nhen em?".
Vợ tôi lo lắng: "Làm sau đủ sữa cho 2 đứa? Thiên hạ nói bậy bạ làm sau chịu nổi?".
"Cho nó uống sữa bò, anh sẽ mướn thêm người giúp việc nữa cho em.", tôi quả quyết.
"Tùy anh!", vợ tôi đồng ý.

BIÊN NIÊN TIỂU SỬ LÝ BẠCH (701 - 762) – Đỗ Chiêu Đức




三杯通大道,    Tam bôi thông đại đạo,                          
 一斗合自然。   Nhất đấu hợp tự nhiên.                          
但得酒中趣,    Đản đắc tửu trung thú,                           
勿為醒者傳。    Vật vi tỉnh giả truyền !
          
Có nghĩa:
                           
Ba ly thông qua đạo lớn,                          
Một đấu hợp lẽ tự nhiên.                        
Chỉ cần được vui trong rượu,                           
Mặc cho kẻ tỉnh tuyên truyền !      
 

Thứ Ba, 19 tháng 4, 2022

NGƯỜI VIỆT NÓI TIẾNG VIỆT - Phạm Đình Lân


Cung oán ngâm khúc, bản tiếng Nôm


Như tất cἀ cάc dân tộc khάc trên thế giới, người Việt Nam cό tiếng nόi từ lύc bὶnh minh lịch sử nhưng tiền nhân chύng ta không cό chữ viết. Đό là tὶnh trᾳng chung cὐa cάc dân tộc sống ở miền Nam sông Dưσng Tử đến thung lῦng sông Hồng, sông Mᾶ và sông Cἀ cάch đây 3000 nᾰm. Ở Trung Hoa cό lối 500 thổ ngữ khάc nhau nhưng tất cἀ cάc tộc đều cὺng chung một chữ viết.
 

THÁNG TƯ HOA LOA KÈN – Thơ Trần Mai Ngân

 
      


THÁNG TƯ HOA LOA KÈN
 
Tháng tư nơi em không có hoa Loa Kèn
Tháng tư mình cũng mất nhau
Nhưng em không buồn vì chúng ta đã có những tháng tư rực rỡ
Đẹp và tinh khiết thơm mùi hương hoa…
 
Tháng tư chẳng nhạt chẳng nhoà
Em nhớ về anh và mỉm cười
Không buồn trách cũng không rơi nước mắt
Bởi có những lúc rất thật anh đã gọi tên em…
 
Tháng tư xa, tháng tư gần em yêu thêm
Khi thấy những đoá Loa Kèn người ta tặng nhau trên Facebook
Em hiểu rồi… cũng phải kết thúc
Dẫu mình nào ảo tưởng chi đâu…
 
Tháng tư Loa Kèn toả hương sâu…
Sâu thăm thẳm trong em nỗi nhớ!
 
                                                                            Trần Mai Ngân

Thứ Hai, 18 tháng 4, 2022

TẠI SAO LẠI GỌI LÀ “BIỂN ĐEN” (HẮC HẢI)? - Andy Van



Cái tên “Biển Đen” chắc hẳn hầu hết chúng ta ai cũng đều nghe qua. Và tôi dám cá rằng khá nhiều người giống tôi đã từng nhầm tưởng “Biển Đen” là vì nó có màu đen. Nhưng tất nhiên không phải như vậy rồi. Bài viết này sẽ giải đáp điều đó.
 
Nhưng trước hết chúng ta cùng tìm hiểu một chút về lý lịch trích ngang của Biển Đen đã.
 

Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2022

“DỚ DẨN” LÀ MỘT TỪ ĐÚNG CHÍNH TẢ

Nguồn:
https://www.facebook.com/ChinhTaTuVungTiengViet/posts/4373819952661392


Khi nhắc đến “dớ dẩn”, chắn hẳn chúng ta đều nghĩ rằng đây là biến âm của “vớ vẩn”, được hình thành do cách nói “v” thành “d” trong phát âm của người Nam Bộ. Tuy nhiên, có một sự thật thú vị rằng “dớ dẩn” vốn là cách viết đúng chính tả, đã được ghi nhận trong nhiều từ điển có uy tín.
 

DU SỸ TÂM NHIÊN - Bài viết của Chu Giang Phong

                         Trích trong Chu Thị Tạp Ký (trang 77)
 
Tâm Nhiên qua nét vẽ của Trịnh Tài
 
Tâm Nhiên vốn là bạn đồng tu với sư phụ tôi ngày trước tại Tổ đình Linh Sơn, Khánh Hòa. Anh sinh ra bên dòng Cẩm Lệ giang, Đà Nẵng.
 
Trước 1975 học Phật khoa Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn. Chẳng biết vì nợ nần chi với cõi hồng trần mà sau năm 1975, Tâm Nhiên có những xung đột mãnh liệt về tâm thức lẫn nhận thức, bỏ chén cơm chùa, khoác tay nải đi làm ông giáo làng ở ngoài hải đảo Lại Sơn, Kiên Giang, nơi tận cùng đất nước.
 
Hình bìa CHU THỊ THI TẬP. Thơ Chu Giang Phong
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 12. 2021 (150 trang)

Tuy thân xa khỏi mái hiên lam nhưng tâm luôn mang theo đạo hạnh của người từng thọ Sa di ở chốn Không môn với tinh thần thấu triệt ý nghĩa của lời kinh xưa văng vẳng:
 
"Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh"
 

TIỄN XUÂN, ĐƯỜNG THI CỦA THÔI LỖ VÀ GIẢ ĐẢO - Đỗ Chiêu Đức



Hai ba tháng nay, chúng ta đã đón xuân, mừng xuân, chúc xuân, rồi... vui với nàng xuân. Đến nay thì Xuân đã sắp tàn, sắp hết, sắp tận rồi ! Thôi thì, ta hãy cùng nhau "Đưa Tiễn Nàng Xuân" nhé !

THÁNG TƯ BIỂN TÍM – Thơ Nguyên Lạc

 
  

THÁNG TƯ BIỂN TÍM
 
Quê hương ngút mắt vời phương đó
Thăm thẳm mây trôi tận cuối trời!
Tháng tư đầy mắt người lữ thứ
Thống thiết mùa về cố nhân ơi!
 
Đã cố dặn lòng thôi đi tôi
Ra đi là đã biệt li rồi!
Thôi nhé chỉ còn trong tâm tưởng
Ai người giữ được áng mây trôi?
 
Vô thường nhân thế huyễn mộng thôi
Chia biệt thanh xuân nát mộng đời!
Tháng Tư cuồng nộ mùa bão nổi
Tàn nhẫn cợt đùa ước hẹn đôi!
 
Đại dương thăm thẳm nhìn đâu thấy!
Quê nhà xa ngái cuối phương đoài
Biển tím hoàng hôn hồn tôi tím
Ai sẻ chia tôi nỗi sầu này?!
 
Cố hương lam khói vời phương ấy
Vẫn mãi trong tôi bóng nguyệt đầy
Cố nhân mất dấu tìm đâu thấy
Đêm đêm điệp mộng dáng liêu trai!
 
Tháng Tư ngấn lệ màu mắt ấy
Thê thiết khanh ơi nỗi tình hoài
Tháng Tư dâu bể dòng lệ tím
Thôi nhé người rồi áng mây bay!
 
Bao năm rồi đó đời cô lữ
Thất chí Hồ trường khóc tàn phai!
Tháng tư biển tím hoàng hôn tím
Thì thào bãi vắng sóng bi ai!
 
Tháng tư ra biển trời nước tím
Biếc tím hồn này tri kỷ ơi!
Da diết thông ru chiều thê thiết
Miên viễn phương trời sao chia say?!
 
                                       Nguyên Lạc