Anh Phú,
Trưa nay nhận qua email do anh gửi một bài tùy bút của một đồng môn Nguyễn Hoàng, anh Hoàng Long Hải: Tiếng còi tàu. Bài viết cảm động, nhắc đến những tâm trạng người đi kẻ ở trên sân ga , tiếng còi tàu não nuột và các địa danh thân thương của 2 ga nằm cuối cung đường sắt phía bắc trước đây,tôi liên hệ đến một bài dịch tương tự để thấy sự đồng cảm của con người khi nghe tiếng còi tàu...Cám ơn anh đã gửi bài.
Đào Văn Nhẫn.
PHIẾM LUẬN TIẾNG CÒI TÀU (J’ENTENDS SIFFLER LE TRAIN)
Đào Văn Nhẫn
Bài hát “J’entends sìffler le train” của Richard Anthony là một thành công lớn trên lĩnh vực âm nhac vào đầu thập niên 1960.Bài hát tiếng Pháp này không những được hâm mộ tại Pháp mà còn cả trên khắp thế giới từ lúc xuất hiện và mãi cho đến tận bây giờ. Bài hát buồn, hoài cổ về những cuộc chia ly đẫm nước mắt trên sân ga của những chiếc tàu chạy bằng hơi nước cùng những hồi còi rộn rã làm nhói những con tim của những người đi kẻ ở lại… Nghe bài hát này, chúng ta thấy quá khứ đã được tái hiện qua hình ảnh những con tàu chạy bằng hơi nước với những đầu máy nặng nề có khói bốc lên cùng tiếng còi kéo dài mà ngày nay đã dần dần được thay thế bằng những đầu tàu hiện đại hơn, chạy bằng Diesel hoặc bằng điện.
Đồng cảm như nhạc sĩ Anthony, cách nữa vòng trái đất, Thi sĩ Nguyễn Bính cũng đã có một bài thơ viết về cảnh chia ly ở sân ga “Những bóng người trên sân ga” với những cung bậc tình cảm và con người khác nhau song tựu trung vẫn giống nhau ở sự đau buồn, luyến tiếc, bồi hồi của kẻ ở người đi…
Đồng cảm như nhạc sĩ Anthony, cách nữa vòng trái đất, Thi sĩ Nguyễn Bính cũng đã có một bài thơ viết về cảnh chia ly ở sân ga “Những bóng người trên sân ga” với những cung bậc tình cảm và con người khác nhau song tựu trung vẫn giống nhau ở sự đau buồn, luyến tiếc, bồi hồi của kẻ ở người đi…
“…Những chiếc khăn màu thổn thức bayNhững bàn tay vẫy những bàn tayNhững đôi mắt ướt nhìn đôi mắtBuồn ở đâu hơn ở chốn này…?”(Nguyễn Bính)
Và bài hát “Tiễn em”, thơ của Cung Trầm Tưởng, nhạc của Phạm Duy cũng lấy bối cảnh ở sân ga cùng những giây phút xúc động lúc chia tay:
“…Tuyết rơi mỏng manh buồnGa Lyon đèn vàngCầm tay em muốn khócNói chi cũng muộn màng”.
Trở lại bài hát làm nổi đình đám thập kỷ 1960 của Richard Anthony (1/1938-4/2015). Mời nghe một số lời bình phẩm:
“… Một giai điệu hay và biểu cảm không bao giờ lạc hậu đối với những ai đã từng có những trải nghiệm niềm đau của một lần chia ly, dầu cho trong chốc lát, giữa hai người yêu nhau.”
(Pilassima Pagnawia)
“… Mẹ tôi thường ru tôi ngủ bằng bài hát này khi tôi còn bé”
(Time Traveller)
“… Ngày nay đối với chúng ta là chuyện bình thường khi một chiếc tàu tốc hành hiện đại (TGV;Train à Grande Vitesse) xuất phát nhanh chóng và nhẹ nhàng từ sân ga thì trước đây một đầu máy hơi nước nặng nhọc kéo những toa tầu rời ga là một hình ảnh rất ấn tượng và xúc động, đặc biệt là nó còn kéo một hồi còi dài như để từ giã bạn khi đem theo một người thân của bạn trên tàu.”
(Patrick Perrozet)
“… Mỗi lần nghe bài này tôi đều khóc. Lúc tôi 5 tuổi mẹ tôi thường hát nó trong thời gian chờ đợi ngày trở về của ba tôi”
(Anissa Zentar)
“... Một bài hát tuyệt vời !Tôi nghe lần đầu tiên năm 11 tuổi,bây giờ tôi đã ở tuổi…”thất thập cổ lai hy” mà vẫn còn cảm động chảy nước mắt mỗi khi nghe lại.”
(Jose Diego Velarde.)
J’ENTENDS SIFFLER LE TRAINJ’ai pensé qu’il valait mieuxNous quitter sans un adieu.Je n’aurais pas eu le coeur de te revoir…Mais j’entends siffler le train, (2x)Que c’est triste un train qui siffle dans le soir…Je pouvais t’imaginer, toute seule, abandonnéeSur le quai, dans la cohue des “au revoir”.Et j’entends siffler le train, (2x)Que c’est triste un train qui siffle dans le soir…J’ai failli courir vers toi, j’ai failli crier vers toi.C’est à peine si j’ai pu me retenir!Que c’est loin où tu t’en vas, (2x)Auras-tu jamais le temps de revenir ?J’ai pensé qu’il valait mieuxNous quitter sans un adieu.Mais je sens que maintenant tout est fini!Et j’entends siffler ce train, (2x)J’entendrai siffler ce train, toute ma vie… (2x)Richard Anthony
Khi dịch, để tránh tình trạng… dịch tức là phản (traduire c’est trahir), người dịch luôn phải nghiên cứu tìm hiểu động cơ, nguồn cảm hứng, tình huống mà tác giả đã viết nên tác phẩm. Một vấn đề quan trọng nữa là cần sâu sát về nhân vật của các đai từ mà tác giả đã đề cập đến trong bài và một khi đã biết đại từ thay thế cho nhân vật nào thì người dịch phải trung thành với cách dịch đó xuyên suốt bài của tác giả. Tuy nhiên, trong bài dịch này, để hợp lý hơn, tôi xin phép được phá lệ: đại từ “je” lần lượt thay cho 2 nhân vật “je” có thể là người con trai, và “je” cũng có thể là người con gái ! Cụ thể:
Bài hát này có thể chia làm hai phần cân đối và rõ rệt:
- Phần 1: 9 câu đầu“Je” là người con trai đang ở trên chuyến tàu sắp đưa mình đi xa , dưới sân ga cô người yêu mình đi đưa tiễn, đơn côi, lạc lõng giữa sân ga (abandonnée, seule…đều giống cái xác định nhân vật phải là nữ)
- Phần 2: 9 câu tiếp theo: “Je” lúc này là người con gái đau khổ nhìn theo người yêu của mình trên tàu và réo gọi tên anh ta, chạy theo tàu khi tàu bắt đầu lăn bánh... Cô cũng bồi hồi xúc động khi nghĩ đến người yêu của mình sẽ đi đến một nơi xa xăm nào đó và tự hỏi không biết đến bao giờ anh ta mới trở lại ? Ở câu kết, lại càng cho ta thấy rõ hơn đặc tính của phái nữ khó quên giây phút chia ly đã ghi dấu ấn trong tim mình mãi mãi, suốt cả cuộc đời…
TIẾNG CÒI TÀUAnh đã nghĩ là tốt hơnChẳng nên nói lời từ giã khi chia tayVì chắc anh không có đủ nghị lực để gặp em lại…Nhưng tiếng còi tàu đã vang lênThật là buồn khi nghe tiếng còi tàu lúc chiều xuống……Tưởng tượng một mình em cô đơn, lạc lõngTrên sân ga, giữa đám đông người đi đưa tiễnVà tiếng còi tàu cứ vang lênBuồn biết bao khi nghe tiếng còi tàu vào buổi chiều…Em suýt chạy theo anh, gọi tên anhKhó khăn lắm em mới kềm chế được!Nơi anh đi nghìn trùng xa cáchCó bao giờ anh định ngày trở lại ?Em đã nghĩ là tốt hơn hếtNên chia tay nhau mà không đi đưa tiễnTuy nhiên giờ em cảm thấy tất cả đã chấm dứt!Tiếng còi tàu này vang vọng mãiVà sẽ vang vọng mãi trong em suốt cả cuộc đời …
Đào Văn Nhẫn dịch từ tiếng Pháp “J’entends siffler le train”.Sài Gòn 7/11/2021
Trong bài, người nữ chỉ nhớ suốt đời đến con tàu, đến tiếng còi tàu đã mang người yêu mình đi xa... Tuy nhiên đối với thế hệ lớn tuổi họ không những nhớ tiếng còi tàu khi đưa tiễn người thân nhiều lần mà nhớ những chiếc tàu chạy bằng hơi nước và tiếng còi tàu độc đáo của nó thời xa xưa mà nay dần dần biến mất. Một hoài niệm dấu ái cho tuổi già và một hiểu biết thêm cho giới trẻ.
Trường hợp có ai đó không đồng tình với cách dịch hoặc bài dịch chưa đạt thì cũng xin tìm nghe giai điệu bất hủ của bản nhạc như một người đã nói: “I love this song even though I can’t understand any words!”(Laurence M.)
Cuối cùng, xin tạ tội với tác giả đã khuất nếu cách dịch này không làm vừa lòng đồng thời cũng xin cám ơn và mong đợi sự chỉ giáo và nhận xét của độc giả đã quan tâm đến bài dịch này.
Sài Gòn ngày 11/11/2021
Đào Văn Nhẫn
*
PAROLES DE LA CHANSONJE LES AI VUS S’AIMER PAR ENRICO MACIASJe les ai vus s'aimer sur le quai d'une gareAnh đã chứng kiến họ yêu nhau trên sân gaAu milieu des adieux et des départsGiữa những lời giã từ khi tàu rời ga đổMalgré leurs cheveux blancs, leurs yeux avaient vingt ansDẫu đã già song mắt họ vẫn còn ngời ánh thanh xuânEt tout l'amour du monde était dedansVà cả thế giới tình yêu đang chìm trong đóJe les ai vus s'aimer tout au long du voyageAnh đã thấy họ yêu nhau suốt cuộc hành trìnhIndifférents aux gens, aux paysagesMặc cho người lẫn quang cảnh xung quanhEt pendant quelques heures, j'ai connu le bonheurVà trong một vài giờ anh đã nhận biết được niềm hạnh phúcQue peut offrir la jeunesse du cœurMà nét thanh xuân của quả tim đã dâng tặng.Le jour où notre amour ne vivra que de souvenirsVào ngày mà cuộc tình chúng ta sẽ chỉ còn là kỷ niệmLorsque nos cœurs seront devenus vieuxKhi tâm hồn chúng ta sẽ trở nên già cỗiJe sais que l'on pourra penser encore à l'avenirThì anh biết ta vẫn còn có thể nghĩ về tương laiSi seulement, on leur ressemble un peuNếu ít ra ta giống họ một phần nàoJe les ai vus s'aimer et je brulais d'envieAnh đã thấy họ yêu nhau và nóng lòng khao khátDe leur parler de connaitre leur vieĐược nói với họ, hiểu hơn cuộc đời của họMais je n'ai pas osé, Je me suis contentéNhưng thật lòng anh không dám, anh chỉ đành lòngDe leur sourire quand ils m'ont regardéMỉm cười với họ khi họ nhìn anhQuand je suis loin de toi, que la tristesse m'envahitKhi anh xa em và khi nỗi buồn xâm chiếm hồn anhEt que déjà blanchissent mes cheveuxVà khi tóc anh đã bắt đầu nhuốm bạcJe sais qu'on s'aimera même à l'automne de la vieAnh biết ta vẫn yêu nhau vào mùa thu của cuộc đờiSi seulement on leur ressemble un peuNếu ít ra ta giống họ một phần nàoJe les ai vus s'aimer et je n'oublierai pasAnh đã thấy họ yêu nhau và anh sẽ không bao giờ quênCet instant de bonheur que je leur doisCái giây phút hạnh phúc nhờ họ mà anh cóBien qu'ils ne m'aient rien dit, Je crois avoir comprisDầu họ không nói gì song anh tin mình đã hiểuQue l'amour peut durer tout une vieTình yêu có thể bền lâu suốt cả cuộc đời.
Traduit du francais par DVN, SG les premiers jours d’Avril 2022
NHỮNG BÓNG NGƯỜI TRÊN SÂN GALES SILHOUETTES SUR LE QUAI DE LA GARE
Những cuộc chia ly khởi tự đâyCây đàn sum họp đứt từng dây.Những đời phiêu bạt, thân đơn chiếc,Lần lượt theo nhau suốt tối ngày…Les séparations partent de ce lieuLa guitare de réunion brise ses cordes les unes après les autres.Des vies vagabondes, âmes solitairesSe suivent inlassablement chaque jour et nuit…Có lần tôi thấy hai cô bé,Sát má vào nhau khóc sụt sùi.Hai bóng chung lưng thành một bóng“Đường về nhà chị chắc xa xôi?”J’ai vu une fois deux petites jeunes fillesJoues contre joues pleurent en petits sanglotsDos contre dos, deux ombres ne font qu’une“Votre chemin de retour devra être long” ?Có lần tôi thấy một người yêuTiễn một người yêu một buổi chiều,Ở một ga nào xa vắng lắm!Họ cầm tay họ, bóng xiêu xiêu.Un jour j’ai vu un amantFaire ses adieux à sa bien - aimée un soir,Dans une gare perdue dans le lointain!Ils se tiennent les mains, leurs ombres cèdent sous l’émotion.Hai chàng tôi thấy tiễn chân nhau,Kẻ ở sân toa, kẻ dưới tàu,Họ giục nhau về ba bốn bận,Bóng nhòa trong bóng tối từ lâuJ’ai reconnu même deux jeunes gens en train de se faire des adieuxL’un sur la plateforme du train, l’autre sur le quaiIls pressent l’un l’autre de se quitter plusieurs fois,Leurs ombres se sont effacées depuis longtemps dans l’ombre nocturne.Có lần tôi thấy vợ chồng ai,Thèn thẹn đưa nhau, bóng chạy dài,Chị mở khăn giầu, anh thắt lại:“Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!”Et puis il y a un certain couple,Se disant adieu avec pudeur, leurs ombres s’allongent,Elle ouvre son petit sac de bétel, il le renoue:“Reviens et prends soin de notre mère, ma chérie !”Có lần tôi thấy một bà giàĐưa tiễn con đi trấn ải xa.Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứngLưng còng đổ bóng xuống sân ga.Une fois, j’ai vu une vieille dameFaire ses adieux à son fils allant aux frontièresLe train est parti depuis longtemps, elle reste encore là, pétrifiée.L’ombre de son dos vouté projette sur le quai.Có lần tôi thấy một người đi,Chẳng biết vì đâu, nghĩ ngợi gì!Chân bước hững hờ theo bóng lẻ,Một mình làm cả cuộc phân ly.Une autre fois j’ai vu une personne qui part,Sans savoir de quelle raison ni de quelle pensée il s’agit,Il marche d’un pas indifférent, ombre solitaire,Lui seul représente toute une séparation !Những chiếc khăn mầu thổn thức bay,Những bàn tay vẫy những bàn tay,Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt,Buồn ở đâu hơn ở chốn này ?Les écharpes multicolores voltigent en sanglotant,Les mains agitent les mainsLes yeux mouillés retrouvent les yeux mouillésOù est plus triste que cet endroit?Tôi đã từng chờ những chuyến xe,Đã từng đưa đón kẻ đi về.Sao nhà ga ấy, sân ga ấy,Chỉ để cho lòng dấu biệt ly ?J’ai déjà maintes fois attendu le va –et- vient des cars,Déjà maintes fois dit des bonjours et adieux à des gens,Mais pourquoi cette station, ce quai de gare,Ne laisse que des traces de séparation dans mon coeur ?
Đào Văn Nhẫn dịch thơ Nguyễn Bính
Traduit du Vietnamien par DVN. SG le 24/10/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét