Nghe nói trong nghĩa trang Westminter, có một ngôi mộ lúc nào cũng tuyền một màu vàng tươi hoa cúc. Những đóa hoa cúc được chăm sóc thật kỹ, không khi nào thấy bóng dáng hoa héo nơi mộ chí. Người quá cố, lúc sinh thời, là người rất yêu hoa cúc vàng. "Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc" là câu thơ ông đã viết trong bài thơ Áo Lụa Hà Đông. Ông là nhà thơ Nguyên Sa.
Nhà thơ Nguyên Sa tên thật là Trần Bích Lan, sinh ngày 1 Tháng Ba, 1932, tại Hà Nội, ông còn có bút danh Hư Trúc khi làm thơ, nhà báo. Ông còn là một giáo sư triết học nổi tiếng của Sài Gòn trước năm 1975.
Năm 1949, ông sang Pháp du học. Trong thời gian này, theo một số tài liệu về cuộc đời ông, chính những cuộc chia ly đã trở thành nguồn cảm hứng cho sự ra đời của “Mai Tôi Đi,” “Paris Có Gì Lạ Không Em,” “Tiễn Biệt.” Bút danh Nguyên Sa cũng ra đời trong thời gian này.
Có thể nói trong những năm cuối thập niên 50, đầu 60 thơ Nguyên Sa là tình ca được lớp trẻ đương thời yêu chuộng. Họ sử dụng thơ của ông để viết "tình thư". Ví dụ như
“Không có anh nếu một mai em chếtThượng đế hỏi anh sao tóc em buồnSao tay gầy, sao đôi mắt héo hon.Anh sẽ phải cúi đầu đi vào địa ngục…”
Cho nên, không có gì lạ khi ông là một trong những nhà thơ hiếm hoi bán chạy những tập thơ của mình. Và điều này càng trở nên rõ ràng hơn kể từ khi thơ của ông được nhạc sĩ Phạm Duy rồi nhạc sĩ Ngô Thụy Miên mang ra phổ nhạc.
Thực tế đã cho thấy thơ Nguyên Sa hòa trong nhạc Phạm Duy, Ngô Thụy Miên không những đã chinh phục giới trẻ đương thời, mà còn tồn tại trong niềm yêu thích của không ít người trong số thế hệ đó đến tận giờ phút này, ở nhiều nơi khác nhau.
Thơ của ông là một bầu trời tự do, tự do đến mức lạc vần, không điệu. Bài thơ Paris ông viết là một ví dụ:
Thực tế đã cho thấy thơ Nguyên Sa hòa trong nhạc Phạm Duy, Ngô Thụy Miên không những đã chinh phục giới trẻ đương thời, mà còn tồn tại trong niềm yêu thích của không ít người trong số thế hệ đó đến tận giờ phút này, ở nhiều nơi khác nhau.
Thơ của ông là một bầu trời tự do, tự do đến mức lạc vần, không điệu. Bài thơ Paris ông viết là một ví dụ:
“… Rồi cả ngườicả Paris nhìn tôi qua một nụ cười nhắn nhủnụ cười mềm như ánh nắng của cuộc chia lycủa một buổi sáng mai khi những người phu đổ rác bắt đầu đinhững thùng rác bắt đầu cọ vào nhauvới những tiếng kêu của một loài sắt lạnhnhư những tiếng kêu của những chiếc đinh khô, những mình búa rắncủa những đôi mắt nhìn theovà tôi cũng nhìn theokhông biết người ta vừa khâm liệm mình hay khâm liệm một người yêuDù người yêu không phải là người con gái có mớ tóc vàng…”(Paris)
Năm 16 tuổi, tôi đã biết và đã "say" những câu thơ nói về một Paris bên kia địa cầu, có ánh trăng phủ bờ sông Seine, có sương mù trắng tựa màu áo, tan loãng giữa trời mùa Thu.
“Paris có gì lạ không em?Mai anh về giữa bến sông SeineAnh về giữa một dòng sông trắngLà áo sương mù hay áo em?Em có đứng ở bên bờ sông?Làm ơn che khuất nửa vầng trăngAnh về có nương theo dòng nướcAnh sẽ tìm em trong bóng trăng…”
Rồi, từ “Paris có gì lạ không em”, tôi nhận ra một Nguyên Sa đã yêu và nhớ Paris như yêu và nhớ một người tình…
“… tôi yêu Paris hơn một người bạn yêu một người bạnHơn một người yêu yêu một người yêu”(Paris)
Còn nữa:
“Paris có gì lạ không em?Mai anh về em có còn ngoan ?Mùa Xuân hoa lá vương đầy ngõEm có tìm anh trong cánh chim…”(Paris Có Gì Lạ Không Em)
Một tài liệu về Nguyên Sa có trích dẫn lý giải của ông về điều này:
"NGOAN với EM là vần ép, SÔNG và TRĂNG thì lạc vận không còn gì để nghi ngờ. Tôi chấp nhận. Tôi nghĩ nếu có trách cứ về những vần cưỡng ép và vần lạc thì cũng đúng thôi, tôi không có gì để biện minh. Tôi chọn lựa nền âm thanh, chọn lựa sự xuất hiện của hàng loạt những tiếng đồng âm, tạo thành một nền âm thanh, để cho những vẫn chỉ có từ thông vận đến lạc vận, bay nhảy.
Tôi vẫn nghĩ là tôi có nhiều may mắn. Tôi không thấy người đọc nào than trách về những sử dụng vần điệu vượt ra ngoài khuôn khổ của vần điệu, hoàn toàn xây dựng trên sự mơ ước sáng tạo, sự phối hợp âm thanh của cả đoạn, của nhiều đoạn, của cả bài.
Chỗ dung thân của thơ phải chăng là sự bao dung có tên là tình yêu?"
Thanh xuân của tôi có lẽ đã bớt đẹp đi nhiều nếu thiếu sự bao dung trong tình yêu mà ông nói tới. Những bài thơ Nguyên Sa chép trong cuốn sổ tay được tôi đóng từ những trang giấy chưa sử dụng từ những cuốn tập của năm học trước. Giấy được làm từ bã mía (nghe nói vậy), vàng vàng, sần nhám, cứ làm hư ngòi viết.
“Anh vẫn nhớ em ngồi đây, tóc ngắnMà mùa Thu dài lắm ở chung quanhLinh hồn anh vội vã vẽ chân dungBày vội vã vào trong hồn mở cửa…”
Còn nữa
“… Khi em đến nằm ngoan trên đồi cỏCó bỡ ngỡ là mặt trời bỡ ngỡCó xôn xao là núi lớn xôn xaoCánh tay anh, anh đã dặn nằm imĐôi mắt anh đã trở thành tinh túĐứng thật xa để canh chừng giấc ngủĐứng thật cao như ngọn hải đăngAnh canh chừng con thuyền lạ đi ngangSẽ chở em về quê hương thần thoại…”(Kỳ Diệu)
Thơ của Nguyên Sa giản dị đến mức… trần tục. Nhưng đó là cái trần tục của những câu thơ rất “đời” với những hình ảnh bình dị trong cuộc sống:
“Hôm nay Nga buồn như con chó ốm,Như con mèo ngáy ngủ trên tay anhĐôi mắt cá ươn như sắp sửa se mìnhĐể anh giận sao chả là nước biển…”(Nga)
Còn nhớ, lần đầu khi đọc bài thơ Nga, tôi (và chắc không chỉ mình tôi) không biết Nga là ai, ai là Nga.
Mãi rất lâu sau này, khi có cơ hội tìm đến các tài liệu về Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam, tôi mới biết “Nga” là nhân vật có thật, là phu nhân của ông – bà Trịnh Thúy Nga. Bài thơ “Nga” còn có một chi tiết đặc biệt khác, đó là được in thay giấy báo tin thành hôn của hai người vào mùa Giáng Sinh 1954.
Thanh xuân của tôi và của nhiều người khác đẹp nhờ phần nào được dệt bằng thơ của ông để “nuôi tình mình khôn lớn.” . Có những cuộc tình không trọn, nhưng chắc chắn nó đã được sống một khoảng đời rất đẹp với thơ của Nguyên Sa.
Nếu ở xứ người hay khi về Việt nam, tôi vẫn cứ nghe thấy những câu hát như “áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc, áo nàng xanh...”, hay là: “Paris có gì lạ không em? Mai anh về em có còn ngoan... Anh về giữa một giòng sông trắng, Là áo sương mù hay áo em...” cất lên từ quán nào đó. Tôi chẳng ngạc nhiên khi thấy sức sống của những nhạc phẩm này đã vươn dài đến một thế hệ khác đang trong tuổi yêu đương như thế hệ tôi và thế hệ trước tôi.
Nói tới thế hệ trước, tôi nghĩ không ít các anh chị đã từng là học trò của ông. Tôi bao giờ cũng ước mơ được như các anh chị - được gặp ông, được ngồi trong lớp của ông và nghe ông giảng bài. Không gặp được ông ngoài đời nhưng tôi đã "gặp" được ông trong lúc đọc thơ của ông, những lời thơ nhẹ nhàng, có chiều sâu. Tôi đã từng ước mơ được gặp ông một lần để cho tôi được cám ơn ông là ngày xưa ở Việt nam, ông đã làm đẹp hơn mộng mơ cho tình yêu của cả bao người, trong đó có tôi.
Chiều hôm qua, lúc ngồi ở bệ đá trước nhà, nhìn những đóa cẩm chướng đắm mình trong nắng xuân, bất giác tôi buông câu hát: "Nắng Saigon, anh đi mà chợt mát...." Mới hay rằng cho đến ngày hôm nay, thơ của Nguyên Sa đối với tôi mãi mãi là ký ức ngọt ngào về một Sài Gòn của tuổi đôi mươi với hàng cây me xanh thẳm, những buổi chiều tan học mưa trắng trời, những câu chuyện bất tận về một Paris lãng mạn vô cùng xa lạ ngày đó. Chính những cuộc tình trên sông Seine, những bóng dáng thướt tha trong sương mù, hay hè phố Saint Michel trong thơ Nguyên Sa đã chắp cánh ước mơ của các cô cậu học trò chúng tôi, ru chúng tôi vào những giấc mộng đời thật đẹp, bao dung và độ lượng.
Lời nói cảm ơn ông trong ước mơ của tôi lại vọng về. Hôm qua là ngày kỷ niệm 26 năm ngày mất của ông.
Nguyen Tuong Van
*
Nguồn:
https://www.facebook.com/groups/395853348109312/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét