本命 [bổn mệnh] bị biến thành bản mạng
Theo tục xưa, người dân Đàng Trong kỵ húy các chúa Nguyễn, do đó một số từ ngữ bị biến âm. Không chỉ biến đổi về âm mà còn áp dụng cả trong cách gọi tên các dòng họ.
Ngày nay trong ngôn ngữ tiếng Việt đặc biệt là khu vực miền Nam và miền Trung xuất hiện rất nhiều từ đồng nghĩa như: “cây cảnh - cây kiểng, bình hoa - bình bông, hay hành chính - hành chánh”... Những điểm khác biệt này góp phần làm tiếng Việt thêm phong phú, tạo ra sự thích thú khám phá vùng miền. Quay ngược dòng thời gian lịch sử thì những từ ngữ này xuất hiện có liên quan tới việc kị húy trong thời phong kiến.
Theo nhà sử học Lê Văn Lan, người Đàng Trong kỵ húy các chúa Nguyễn nên đã đọc biến âm một số từ ngữ sau:
Chữ Hoàng là tên chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) nên họ Hoàng phải đổi thành họ Huỳnh, Chữ "hoàng" cũng đọc là "huỳnh" (như lưu huỳnh).
Nguyễn Phúc Khoát là Vũ Vương, nên người họ Vũ đổi thành họ Võ.
Chữ "Phúc" là tên đệm trong họ Nguyễn Phúc của vua chúa Nguyễn, vì vậy "phúc" phải đọc thành "phước".
Chữ "Cảnh" là tên con cả Nguyễn Ánh (Nguyễn Phúc Cảnh, người được Nguyễn Ánh đưa sang Pháp làm con tin để đổi lấy sự giúp đỡ đánh Tây Sơn) nên "cảnh" phải đổi đọc là "kiểng".
Chữ "Kính" là tên Nguyễn Hữu Kính (Nguyễn Hữu Cảnh), người khai lập Sài Gòn, nên "kính" phải đọc chệch là "kiếng" vì vậy "tấm kính" gọi là "tấm kiếng".
Chữ "Tông" là tên Nguyễn Phúc Miên Tông, tức vua Thiệu Trị (cháu nội Nguyễn Ánh), nên "tông" phải đọc là "tôn". Chính vì lý do này, một loạt sử sách chép miếu hiệu các vua như Lý Thánh Tông, Lê Thánh Tông, Trần Thái Tông, v.v... đều ghi là Lý Thánh Tôn, Lê Thánh Tôn, Trần Thái Tôn, v.v... Đến mãi sau này một số sách sử thời hiện đại vẫn bị ảnh hưởng, chép miếu hiệu các vua từ "Tông" thành "Tôn". Các tên đường phố tại miền Nam Việt Nam, mà tên gọi là miếu hiệu các vị vua, hiện nay cũng đa phần ghi Tông thành Tôn. Chẳng những thế, một dòng họ hoàng tộc, cũng vốn phải đọc là "Tông Thất", nhưng vì kiêng húy chữ Tông này nên lại đọc thành "Tôn Thất".
Chữ "Thì" là tên thủa nhỏ của vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ "thì" đọc thành "thời".
Chữ "Nhậm" là tên chữ của vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Hồng Nhậm) nên "nhậm" đọc thành "nhiệm"...
Ngày nay, xã hội hiện đại và dân chủ hơn, ngôn từ cũng trở nên phóng khoáng. Tuy nhiên, với vị trí là triều đại phong kiến cuối cùng của Việt nam, gần gũi hơn hết với thời cận hiện đại, các luật húy kỵ của triều Nguyễn để lại nhiều dấu ấn nhất định và vẫn được duy trì trong ngôn ngữ sinh hoạt của người Việt hiện tại.
Dưới đây là những chữ quốc húy dưới thời Nhà Nguyễn thường gặp:
Âm chính Âm trạiLĩnh LãnhChu ChâuThụ ThọThư ThơDung DongHoàn HườnPhúc PhướcÁnh Yên, Yếng, ẢnhChủng ChưởngĐang ĐươngĐảm ĐởmKiểu CảoHoa HuêThật ThiệtMân MiênChính ChánhTông TônTuyền ToànHằng ThườngHạo HiệuNhậm NhiệmHồng HườngThì ThờiHài HiaChân ChơnĐường ĐàngCảnh KiểngLân LiênSan SơnĐiều Đều
Nguồn:
https://ngotoc.vn/.../ki-huy-duoi-thoi-nha-nguyen-362.html
Tham khảo thêm:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Húy_kỵ


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét