“Khai vị” là một từ gốc Hán, vốn được viết từ hai chữ 開胃, trong đó “khai” (開) có nghĩa là “mở’ (như trong “khai giảng”, “công khai”...) còn “vị” (胃) được Việt Hán Thông Thoại Tự Vị của Đỗ Văn Đáp giảng là “dạ dầy, một cái trong lục phủ, lệch về bên tả, ở dưới hoành cách mô”. Đây cũng là “vị” trong “vùng thượng vị” (vùng phía trên của bụng, có ranh giới từ rốn trở lên đến phía dưới xương ức).
“Khai vị” là món được dùng đầu tiên trong một bữa tiệc. Hẳn vì liên quan đến món ăn nên nhiều người đã hiểu rằng “vị” ở đây chính là “vị” trong “hương vị”, “mùi vị” và “khai vị” có nghĩa là “khai mở hương vị”. Thực tế thì nghĩa đen của từ này không “lộng lẫy" như thế.
“Khai vị” là một từ gốc Hán, vốn được viết từ hai chữ 開胃, trong đó “khai” (開) có nghĩa là “mở’ (như trong “khai giảng”, “công khai”...) còn “vị” (胃) được Việt Hán Thông Thoại Tự Vị của Đỗ Văn Đáp giảng là “dạ dầy, một cái trong lục phủ, lệch về bên tả, ở dưới hoành cách mô”. Đây cũng là “vị” trong “vùng thượng vị” (vùng phía trên của bụng, có ranh giới từ rốn trở lên đến phía dưới xương ức).
Như vậy, “vị” ở đây không liên quan gì đến hương vị cả mà vốn có nghĩa là “dạ dày”, và món “khai vị” hiểu thuần theo nghĩa đen là “món dùng để khai mở dạ dày” (rất dễ hiểu vì đây là món đầu tiên trong bữa ăn).
Ngoài ra, ta còn có những chữ “vị" khác như sau:
“Vị” có nghĩa là “mùi”, “hương vị", vốn được viết bởi Hán tự là 味, xuất hiện trong “gia vị" (gia (加): thêm vào, “gia vị" tức thêm hương vị vào).
“Vị” trong “đọc vị”, thường được dùng với nghĩa “thấu hiểu, nắm rõ”, xuất hiện trong các cụm từ như “đọc vị bất kỳ ai”, “đọc vị đàn ông”, “đọc vị phụ nữ”... Thực tế, cách nói “đọc vị” này bắt nguồn từ trò chơi xóc đĩa. Khi chơi, quản trò (nhà cái) để hai đồng xu vào chiếc đĩa, úp một cái bát lên trên rồi xóc (lắc mạnh). Người chơi sẽ dự đoán trạng thái của hai đồng xu (cùng sấp, cùng ngửa, một sấp một ngửa). Trong ngôn ngữ của dân chơi, “vị” chính là để chỉ “đồng xu” còn khả năng tiên đoán trạng thái sấp/ ngửa của chúng được gọi là “đọc vị”. Về sau không rõ nguyên do nào mà “đọc vị” được chuyển sang sắc thái hào nhoáng hơn để chỉ việc thấu hiểu, nắm rõ người khác.
Trở lại với những món ăn, bên cạnh “khai vị”, ta còn có từ “điểm tâm” hẳn cũng gây khó hiểu cho một số độc giả. Đây cũng là một từ Hán Việt, vốn được viết bằng hai chữ 點心 với “điểm” (點) là “chấm phá, nhỏ giọt, trang trí” (cũng là “điểm" trong “trang điểm") còn “tâm” (心) là “tim”, “lòng”. “Điểm tâm” (點心) như vậy được hiểu thuần là “chấm phá một chút nơi lòng”, hẳn vì thế mà người ta đã dùng từ này để chỉ bữa ăn nhẹ lót dạ cho đỡ đói.
Quý độc giả có đồng ý với cách lý giải này không? Hãy cùng chia sẻ với Tiếng Việt giàu đẹp nhé!
Tiếng Việt giàu đẹp

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét