CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 30 tháng 6, 2025

EM ƠI EM EM LÀM CHO ANH NGẠT MÙI TÓC EM THƠM NGÁT QUÊ HƯƠNG – Thơ Trần Vấn Lệ


 

Em nói với anh:  Em có về thăm Nước,
thăm bà con, chòm xóm, và,
ngao du...
 
Đất Nước ta như một trái cầu,
em để trái tim em lăn theo vòng lịch sử.
Lịch sử là chuyện thời quá khứ,
cả bây giờ, khi lát nữa chia tay...
 
Em nói với anh:  Đất Nước mình Hay,
nghiêng hay ngửa, kệ thôi thời cuộc.
Không ai nhắc làm chi cái thời Tây Thuộc,
cả cái thời thật thà mà thành thật là không!
 
Tất cả người dân đều là người dưng,
mà sướng, khổ, nên chia sẻ nhau thành ra hàng, họ...
 
Cười cười khan họ Trần, họ Trương,
có thêm Lương, thêm Bạch,
thêm họ Mã, họ Hồ...
Đói lòng thì kiếm họ Ngô,
muốn có thóc kiếm tới nhà họ Thúc...
họ Đào, họ Đặng, họ Đái..., họ Lại, họ Hoàng...
 
Nhiều người sống không cần lo toan,
khi họ mất, đám ma thành Lễ... Mễ!
Có nhiều người nói năng nhỏ nhẹ,
nghe bùi tai thì ra họ Bùi!
Có nhiều người nhác như con thỏ,
mà họ là họ Võ... bỗng uy nghi!
Võ Nguyên Giáp chăm lo phụ nữ,
người ta quên ông là võ tướng tài ba!
 
Văn Tiến Dũng không xinh như cái hoa
sao lại đẹp?  Chắc vì tên quá đẹp!
Còn họ Nguyễn, nhiều ghê, hầu như ai cũng Nguyễn...
Họ Phan, họ Phạm, họ Lý, họ Lê...
có cả họ Ma, họ Ngụy, họ Phí, họ Mạc, họ Từ...
họ Cao, họ Chu, họ Triệu, họ Âu, họ Vương, họ Dương...
họ Đường, họ Lộ...
 
Chuyện Đất Nước nhắc cho mình nhớ,
chuyện đời người giai thoại rất tâm tư!
Thương thương nhất cái miệng em cười:
Em nói: ở Hà Nôi, Sài Gòn muốn mua thứ gì cũng có.
mà anh ơi toàn đồ giả không hà...
Thương mấy người Tác Giả bị bỏ qua
vì lắm kẻ không biết chữ lại có rất nhiều sáng tác...
 
Em ơi em, em làm cho anh ngạt
Mùi tóc em thơm ngát Quê Hương!
 
*
Khi nào buồn buồn, tôi giở bài thơ này ra đọc,
thấy mình còn Tổ Quốc, mình không bơ vơ,
thấy ông Nguyễn Du người đi trong mơ:
 Mới Cảo Thơm... thành lời Quê góp nhặt! (*)
 
Ngọn đèn khuya buồn tay tôi bấm tắt
thấy mình ngồi trong bóng tối đại dương...
Tôi nhắc tới biển, tới đèn, tôi nhớ ông Nguyễn Đinh Chiểu,
Vô cùng là nhớ:
 
"Lời quê dù vụng hay hèn
Cúi xin lượng biển uy đèn thứ cho".
 
                                                                            Trần Vấn Lệ
 
(*) Thơ Nguyễn Du, để trước rồi sau truyện dài Đoạn Trường Tân Thanh:  từ "Cảo Thơm lần giở trước đèn, phong tình cổ lục còn truyền sử xanh" rồi thì "Lời quê góp nhặt dông dài, mua vui cũng được một vài trống canh!".  Chắc "lời quê" là "lời nên bỏ đi, dở lắm" nên hậu bối Tố Hữu cũng bèn nhục mạ Đất Nước trong cuốn Nước Non Ngàn Dặm:  "Đường đi hay giấc mơ dài?  Nước Non Ngàn dặm nên bài thơ Quê!".

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2025

GỌI “NỮ GIỚI”, KHÔNG GỌI “PHỤ NỮ” - Matthew NChuong


Hình tờ báo Nữ giới chung; riêng hình cô gái bên trái là hình minh họa phái nữ, không phải cô Sương Nguyệt Anh.

Báo "NỮ GIỚI CHUNG" gọi "NỮ GIỚI", không gọi "Phụ nữ".
 
/1/ Hồi năm 1918, cô Nguyễn thị Ngọc Khuê (thân phụ là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu), bút danh "Sương Nguyệt Anh" (孀月英) làm chủ bút cho tờ "Nữ giới chung" (女界鐘). Đây là tờ báo ĐẦU TIÊN dành cho nữ giới, ấn hành tại Sài Gòn!
"Chung" nghĩa là chuông, tiếng chuông.

MÙA HẠ - Thơ Lê Phước Sinh



Con Ve sầu thay áo
Trời chịu phép làm ngơ.
Cây kim Xăng lên xuống
Vàng nhảy vọt từng giờ.
 
Em khoanh tay cúi mặt
Dạ thưa như dại khờ.
 
Phượng đỏ rồi Phượng chết
chặt củi bán cây khô.
 
LÊ PHƯỚC SINH

BÂNG KHUÂNG NHỚ NHỮNG CHUYẾN XE ĐÒ MIỀN NAM - Đinh Hoa Lư



SAO GỌI LÀ "XE ĐÒ" NHỈ?
 
Theo giải thích của nhà văn Sơn Nam, đồng bằng Nam bộ sông nước chằng chịt, ngày xưa phương tiện đi lại chủ yếu bằng đò ghe. Cho đến thập niên 1930, người Pháp thành lập một số hãng xe chở khách đi miền Tây. Thời ấy đường bộ chưa phát triển, xe đến bến khách phải chuyển tiếp bằng đò ghe nên người ta gọi là xe đò cho tiện. Thời gian đầu xe đò chạy bằng than củi tràm, bỏ vào cái thùng tròn đặt bên hông xe phía sau. Trước khi cho xe nổ máy thì quạt cho than tràm cháy, hơi ga ấy bị đốt, gây sức ép cho máy xe chạy. Thời gian sau này mới bắt đầu có xe chạy bằng xăng dầu, các hãng xăng dầu của Pháp, rồi Mỹ lần lượt vào Việt Nam và mở ra kỷ nguyên mới của xe cơ giới ở Việt Nam. Tuy nhiên sau năm 1975, xăng dầu rất khan hiếm do các công ty năng lượng Mỹ rút hết khỏi miền Nam, từ đó hình ảnh những chiếc xe đò nhỏ chạy bằng than đốt trong cái thùng phía sau xe được lặp lại từ năm 1975 đến tận cuối thập niên 1980
 
Trích nguồn
Hồi ức về xe đò xưa - Vì sao người miền Nam gọi là "xe đò", "lơ xe"? (nhacxua.vn)

***

ẢO ẢNH THU, TRONG KHOẢNH KHẮC NÀY, TRĂNG HOÀI NIỆM – Thơ Tịnh Bình


   


ẢO ẢNH THU
 
Vòm lá xanh
Nơi mùa thu đứng đợi
Dưới tán cây ngủ quên
 
Mùa hạ tưởng chừng như không thể dài thêm
Bầy ve rỗi hơi không thể làm gì hơn ngoài âm thanh chói gắt
Tắt một bài nhạc buồn
Mặc lũ mưa reo ngoài kia
 
Đôi khi thèm một ban mai lặng im
Chỉ để nghe giọt sương cựa mình buổi sớm
Tiếng lá cây va vào nhau huyên náo
Chúng bần thần khóc tiễn mùa đi
 
Vẹt màn sương bay
Nơi hàng cây không thấy nữa mùa thu đứng đợi
 
Lá vẫn mùa xanh
Chỉ là ảo ảnh thôi
Tự huyễn hoặc mình điều không có thật
Nơi ánh sao xa vừa tắt
Vời vợi đêm dài
Le lói trăng nghiêng...
 

KIM NGÂN CA SĨ - Thơ Châu Thạch


 

Xưa em là ca sĩ
Lẫy lừng trên sân khấu
Em chính là người mẫu
Trong ánh đèn lưu ly
 
Nay em thành tiều tụy
Trên đường phố Hoa Kỳ
Em làm người homeless
Lang thang bàn chân đi
 
Xưa em là ngọc quý
Nay em là viên bi
Lăn bên bờ bên bụi
Tóc bạc màu kaki
 
Thương em còn tiếng hát
Vang vọng một thời xưa
Qua trăm gió ngàn mưa
Vẫn mang hồn ca sĩ
 
Khen em không quỵ luỵ
Vẫn ngạo nghễ giữa đời
Vẫn hát và rong chơi
Như cây tùng sương gió
 
Nhìn em anh sáng tỏ
Một triết lý giữa đời
Em KIM NGÂN sáng ngời
Em mới là ca sĩ!
 
Cho đời lời tinh túy
Cho đời lời lung linh
Cho đời lời chí tình
Không cần đời trả lại!
    
               Châu Thạch
 

CÓ CON NAI TRƯA BUỒN BUỒN NẰM NHAI NẮNG – Thơ Trần Vấn Lệ


   

 
Nắng ơi là nắng!  Trưa trời nắng!
Nắng tháng Sáu mà!  Nắng dễ ngươi.
Mới bước xuống thềm, quay trở lại
Hẹn chiều bớt nắng sẽ đi chơi...
 
Đi chơi, vạn vạn người ra biển,
Chắc cũng vạn người đang Big Bear?
Biển rộng, non cao, trời bát ngát,
Nhà tôi: cái nắng đứng bên hè!
 
Không thể đi ra thì trở ngược
Hơn là sông nhỉ, nắng, mưa, quên...
Nếu không có núi nghiêng đầu ngó
Sông chỉ là sông, không có duyên?
 
Sông núi, đứng chung thành Tổ Quốc
Con chim nói vậy, phải không anh?
Phải không, cả chị và em bé?
Ta sống vì yêu, góp cái Tình!
 
*
Tôi ngồi khuất nắng, ngó ra sân
Không ước mơ xa, hết mộng gần.
Chỉ muốn lang thang mà nắng quá
Giả vờ còn trẻ để... bâng khuâng!
 
San Dimas!  San Dimas!  Thành phố khác
Cách tôi chỉ một nửa giờ xe...
Người ta đổi chỗ, đâu?  Không báo!
Mình đến làm chi?  Đến để về?
 
Tôi bâng khuâng vườn cây rưng rưng
Vườn ở đây mà hóa ra rừng
Có con nai lạc nằm nhai nắng
Nó đẹp làm sao!  Lốm đốm bông...
 
                                             Trần Vấn Lệ

Thứ Năm, 26 tháng 6, 2025

CHÚC MỪNG VÀ CẢM ƠN NHÀ THƠ LA THUỴ - Trần Mai Ngân



Vượt gần 300km khoảng cách Bình Thuận và Vĩnh Long, hôm qua 25/6/2025 quyển Tạp Luận CHỮ NGHĨA VĂN CHƯƠNG của tác giả La Thuỵ đã đến địa chỉ nhà tôi.
 
Cầm quyển sách trên tay, cảm nhận đầu tiên là sự nền nã, nhã nhặn nhưng không kém phần trang trọng trong việc thiết kế bìa về kích cỡ và màu sắc - tất cả rất hài hoà.
Quyển sách gồm 211 trang với 23 bài tham luận gồm nhiều chủ đề nhưng đều liên quan đến văn chương thật lí thú.

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2025

CHẠM – Thơ Trần Mai Ngân

 
    

Mùa Hạ chạm vào tôi
Nhành Phượng đỏ cháy rực
Tiếng ve, tiếng ầu ơ buổi trưa ký ức
Mẹ ru tôi… tay quạt không ngừng
 
Mùa Thu tới lưng chừng, lưng chừng
Chiếc lá rơi chạm vào tôi kỉ niệm
Một nhánh sông ngưng trôi tháng bảy
Khi người về từ chốn xa xôi…
 
Những năm tháng chạm vào tôi - trưởng thành rồi già cỗi
Vẫn nỗi niềm trọn vẹn với yêu thương
Đi qua gần hết vô thường
Chỉ còn lặng lẽ như dường đã lâu!
 
                                                                  Trần Mai Ngân

TIÊU TAO 蕭騷 - Ngày ngày viết chữ


Photo by Michael Held on Unsplash

“Tiêu tao”, chữ Hán viết là 蕭騷, Đại tự điển Hán Việt của Trần Văn Chánh giảng:
– Tiêu là quạnh hiu buồn thảm, hoang vắng, xơ xác, ảm đạm, thê lương. Đây cũng là chữ "tiêu" trong từ tiêu điều (蕭條) mà chúng ta đã quen thuộc.
– Tao là buồn rầu, buồn lo, âu lo, lo lắng.

"Tiêu tao" nghĩa chung là buồn bã, buồn rầu, sầu lo, ảm đạm, não nùng, nói chung là một sắc thái buồn bã thay, sầu não thay. Thơ ca xưa dùng "tiêu tao" khá nhiều, dưới đây là một số câu thơ có dùng từ này để các bạn tham khảo:
 
 1.Thính vũ (Nghe mưa) – Nguyễn Trãi:
 
Tiêu tao kinh khách chẩm,
Điểm trích sổ tàn canh.

蕭騷驚客枕,
點滴數殘更。
 
Đào Duy Anh dịch thơ:
 
Não nùng rung gối khách,
Thánh thót mấy canh dư.
 
2. Truyện Kiều – Nguyễn Du:
 
Lựa chi những bậc tiêu tao,
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người.
 
Bậc tiêu tao ở đây chỉ tiếng đàn buồn rầu, sầu não. Có bản viết là "So chi những bậc tiêu tao", ở đây dẫn theo bản của Nguyễn Thạch Giang hiệu đính (2017).
 
3. Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều:
 
Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ,
Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn.
Muốn đem ca tiếu giải phiền,
Cười nên tiếng khóc, hát lên giọng sầu.
 
"Bóng thỏ" là bóng trăng, "hoa đèn" là đầu sợi bấc đèn đã cháy và bị nung nóng đỏ trông như đoá hoa nhỏ.
                                                                             Ngày ngày viết chữ 

Thứ Hai, 16 tháng 6, 2025

CHỮ NGHĨA “NỆ HÁN” ĐÃ LÀM SAI LỆCH TIẾNG VIỆT KHÔNG THỂ TƯỞNG! - Matthew NChuong


Hình ảnh trong Chùa Đất Sét (Sóc Trăng), theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (Phật Thầy Tây An), CÚNG DƯỜNG bằng thư pháp.

* Âm Hán-Việt chỉ là một phần trong tiếng Việt, và khi gọi "nệ Hán" nghĩa là lấy cách dùng chữ của người Hán làm "chuẩn" úp chụp xuống cách dùng TIẾNG VIỆT CỦA NGƯỜI VIỆT!
* Hai chữ “CÚNG DƯỜNG” bị giải thích méo mó, sai trật tinh yếu của đạo Phật …!

&1&

1a) Để gìn giữ nền tảng của tiếng Việt, trong nhiều thế kỉ ròng rã, tiền nhơn chúng ta đã phải mượn chữ Hán để tạo chữ NÔM (không mượn, biết lấy thứ chữ gì để ghi lại TIẾNG NÓI của người Việt?).
Chữ Nôm thành hình bằng nhiều cách: ghép hai chữ Hán lại với nhau thành một chữ (khiến cho người Hán, và những ai “nệ Hán” chỉ riu ríu dùng Hán mà thôi, nhìn vô là bù trất!);
mượn nguyên dạng chữ Hán, NHƯNG:
- tuy đồng âm (mượn âm Hán-Việt HV mà đọc), NGHĨA THÌ KHÁC HOÀN TOÀN.
- hoặc đồng nghĩa, nhưng “dị âm” (tức ĐỌC BẰNG QUỐC ÂM, khác với âm HV).
- đặc biệt, xin chú ý, là cách thức ĐỌC BẰNG QUỐC ÂM (“dị âm”) và NGHĨA CŨNG KHÁC (“dị nghĩa”) so với chữ Hán.

HỒN ĐẠI VIỆT, GIỌNG HÀN THUYÊN - Nguyễn Hiến Lê


Thi sĩ Đông Hồ (1906-1969)
 
Một trong những nét đẹp nhất mà cũng đặc biệt nhất của đạo Nho, không thấy trong các triết học khác, là gây được cái truyền thống tiến vi quan, thoái vi sư. Học là để tu thân, mà tu thân là để giúp nước, bằng “chính” và “giáo”. Gặp thời loạn không thể thi thố tài đức để cứu dân được thì trở về dạy dân để chuẩn bị cho một thời khác.
 
Khổng tử đã tạo nên truyền thống ấy: ông là người đầu tiên mở các lớp tư thục bình dân ở Trung quốc, vừa làm chính trị vừa dạy học, khoảng sáu mươi bảy tuổi, biết đạo mình không nhà cầm quyền nào muốn theo, mới quay về chuyên việc dạy học. Nội điểm đó, ông cũng được tôn là “vạn thế sư biểu” rồi. Ông “khai lai” rồi Mạnh Tử “kế vãng”. Đời của Mạnh cũng y hệt đời ông, cũng bôn ba các nước chư hầu cho tới già rồi cũng trở về dạy học và có lần thốt ra câu bất hủ này: Người quân tử có ba niềm vui mà một trong ba niềm đó là được các anh tài trong thiên hạ để dạy dỗ (đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi).
 

ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH - Trần Vấn Lệ


Nhà thơ Trần Vấn Lệ duyên vẽ theo yêu cầu của Nguyệt Mai


Người con gái nói: "Không cãi nữa đâu nha!  Để cho tui ngủ mà...".  Và nàng cười, nhắm mắt.
 
Người con trai ngơ ngác:  "Nãy giờ mình cãi sao?  Anh chỉ thấy chiêm bao / em là chim ríu rít!".
 
Người con gái ngủ thiệt!  Người con trai bơ vơ.  Chàng trải giấy làm thơ, chữ đầu tiên một chữ.
 
Chàng cầm giấy chàng ngó / chữ M mờ như mây... Chàng thả tờ giấy bay, mưa rồi... thềm tí tách.
 
Tiếng dế gáy hòa nhạc / bản Tình Ca Phạm Duy.  "Đêm Hôm Đó Đêm Gì" chàng mở cuốn tiểu thuyết...(*)
 
Cuốn sách tác giả viết / biết có bản quyền không... Chàng mua chi ba đồng / đọc suốt đời chưa dứt! (**)
 
Rồi... chàng cũng nhắm mắt / mơ giấc mơ-hồi-hương!
 
*
Câu chuyện rất dễ thương / hai người dân mất nước, tóc Âu Cơ gió ngược / lạnh vai Lạc Long Quân!
 
Sinh chi trăm đứa con... nhiều con trai chết trận, nhiều con gái lận đận... Ôi cái cầu Đoạn Trường...
 
Hai người ngủ.  Mưa tuôn / gió luồn rít tiếng gió; sáng mai ra mở cửa / chắc lá cờ tả tơi?
 
Lá cờ Non Nước ơi... Lá cờ mưa gió lộng... Triệu rưỡi người còn sống... rồi chết.  Hết giống nòi? (***)
 
Người ta nghe cái hơi / tiếng thở dài não nuột.  Nguyễn Du thơ gan ruột / đứt mà thành Tân Thanh...(****)
 
                                                                                       Trần Vấn Lệ
...................

(*) Nhan đề một tập truyện của Khánh Trường.

(**) Ca dao:  "Trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống ruộng cà hái nụ Tầm Xuân.  Nụ Tầm Xuân còn ra cánh biếc, em có chồng rồi anh tiếc lắm thay!  - Ba đồng một mớ trầu cay sao anh không hỏi những ngày còn không?  Bây giờ em đã có chồng như chim vào lồng như cá cắn câu!  Cá cắn câu biết đâu mà gỡ?  Chim vào lồng biết thuở nào ra?".
 
(***) Sau ngày 30 tháng Bốn năm 1975, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc báo cáo có một triệu rưỡi người Việt Nam vượt biển được cứu.  Năm mươi năm hơn rồi con số ấy chắc đã thành số Không, con cái của họ có thì cũng lạc giống lạc dòng...
 
(****) Nguyễn Du là tác giả cuốn tiểu thuyết Đoạn Trường Tân Thanh.  Ông từng nói vậy mà người ta cứ nói Truyện Kiều, ông im lặng đến nỗi Vua Gia Long phải có lần hỏi: "Khanh buồn gì mà cứ im lặng?".  Chuyện xảy ra vào năm 1818 sau khi Phạm Quý Thích cho in bản Phường cuốn Kim Vân Kiều Tân Truyện đề Tiên Điền Nguyễn Du Tác Giả.  Nguyễn Du gầy rạc người và mất năm 1820...

BAO GIỜ NHỈ TÔI VỀ THĂM XỨ QUẢNG – Thơ Trần Trung Đạo


   
               Tranh "Hội An" của Họa sĩ Dư Mỹ  tặng Trần Trung Đạo


Bao giờ nhỉ tôi về thăm xứ Quảng
Mười năm dài mộ mẹ chẳng ai trông
Cỏ có cao hơn nỗi nhớ trong lòng
Ðất có lạnh hơn mùa đông Bắc Mỹ
 
Hải Vân đứng ngậm ngùi bao thế kỷ
Chảy về đâu lai láng nước Thu Bồn
Thuở học trò tôi hay đứng ven sông
Nghe nước vỗ dưới chân cầu Vĩnh Ðiện
 
Còn chăng nhỉ những con đường kỷ niệm
Những bạn bè dăm đứa lạc nơi đâu
Tóc chưa xanh mà đã vội hoen màu
Thời ly loạn tìm nhau trong ký ức
 
Cho tôi ghé thăm trường Trần Quý Cáp
Những màu rêu gạch ngói cũ còn chăng
Bài thơ xưa còn đọng dấu bên thềm
Tôi vẫn viết nhưng thơ buồn hơn trước
 
Ðường Phố Hội chưa mưa đà ngập nước
Những căn nhà lụp xụp nối vai nhau
Ðình Cẩm Phô, khu Khổng Miếu, Chùa Cầu
Tên nghe lạ nhưng vô cùng tha thiết
 
Cho tôi ghé bến xe đò Nam Phước
Lần cuối cùng em đến tiễn tôi đi
Giờ chia tay sao chẳng nói năng gì
Ngàn năm để mây buồn vương trong mắt
 
Bao giờ nhỉ tôi về thăm Núi Quế
Ðứng bên cầu Chợ Ðụn nước trôi xuôi
Mùa sim lên tím rực cả lưng đồi
Hương ngây ngất tôi mộng thành thi sĩ
 
Ai đứng đó bên kia bờ Giao Thủy
Khăn lụa vàng còn chít ở ngang vai
Nghiệp tầm tơ khuya sớm vẫn đeo hoài
Nghề canh cửi chắc còn nhiều cực khổ
Trái tim tôi có một dòng máu đỏ
 
Sẽ một ngày chảy đến tận Câu Lâu
Nước sông Thu dù lụt lội đục ngầu
Nghe vẫn ngọt như bòn bon Ðại Lộc
Bao giờ nhỉ tôi trở về Ðà Nẵng
 
Nghe ngàn khơi thổi lạnh xuống sông Hàn
Bến Bạch Ðằng còn những chuyến đò ngang
Ngày hai buổi nối cầu qua An Hải
Em Trường Nữ có bao giờ trở lại
 
Thả tơ tình trêu chọc đám con trai
Ðường Hùng Vương thuở ấy rất là dài
Sao quá ngắn trong những chiều chung bước
Mây có trắng trên đỉnh chùa Non Nước
 
Mưa có buồn giăng kín núi Tiên Sa
Về chưa em sương phủ xuống Sơn Chà
Còn chăng nhỉ dấu chân tình trên cát
Tôi một dạo hay ôm đàn đứng hát
 
Bài ca buồn tiếng quốc vọng đêm khuya
Quảng Nam ơi khúc ruột đã chia lìa
Chiều viễn xứ ngậm ngùi cho non nước
Tôi đã bảo thơ tôi buồn hơn trước
 
Ðời lưu vong chưa hẹn buổi quay về
Câu hỏi nầy chỉ hỏi để tôi nghe
Bao giờ nhỉ tôi về thăm xứ Quảng.

                                   Trần Trung Đạo

BIÊN BẢN 編本 - Hán-Việt Thông Dụng, Ung Chu


"Biên bản" 編本 là một từ Hán-Việt người Việt tự tạo từ rất lâu, chuyên để gọi các loại văn bản được biên soạn, ghi chép cho mục đích công vụ, họp hành...
- biên : sắp xếp, sắp đặt, đặt chuyện, biên soạn, viết, ghi chép, như trong "biên kịch", "biên lai", "biên nhận" ("biên lai" 編來 và "biên nhận" 編認 cũng là các từ Hán-Việt người Việt tự tạo), đã được Việt hoá thành động từ "biên" trong tiếng Việt
- bản / bổn : tập vở ghi chép, văn bản, như trong "kịch bản".
"Việt-Nam tự-điển" (1931) của Hội Khai Trí Tiến Đức ghi:
- Biên bản 編本. Những tờ giấy biên những việc gì thuộc về công-sự: Biên-bản việc bầu cử, biên-bản việc tố-tụng, biên-bản việc hình án.
Xét cách đọc là "bản" thay vì "bổn", ta đoán rằng từ "biên bản" xuất phát từ các địa phương ở phía Bắc. Tại Hà Nội, sách "Từ hàn cử yếu" 詞翰舉要 (có đủ các lối đơn-từ giấy-má làm việc quan hơn 100 thể) xuất bản năm 1924 có phần hướng dẫn quy cách viết các biên bản.
                                                                                               Ung Chu

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2025

TRUYỆN TÌNH LOVE STORY - Trần Vấn Lệ



Ngày mai?  Ngày mai sao?  Ai biết!
 
Mình đi về Phan Thiết... Mình lên tới Cà Beu...
Có nghe lời Chúa chưa?
 
Chúa nói như đọc thơ:  "Biết hôm nay thôi nhé,
Những khổ cực mình ghé / vai gánh vác, đủ rồi!
Ngày mai còn xa xôi!"
 
Lời Chúa là lời Vui?  Kinh Kính Mừng, mình soạn:
"Tha cho con, dạ sáng, tha cho con nỗi buồn!"
Và... câu cuối, Amen!
 
Này anh chị, anh em:  Chúng ta không cố chấp.
Trời cao và đất thấp, tự hỏi mình ở đâu?  Buồn. Bực
và lo âu... đường cuối cùng: Nghĩa Địa!
 
Sống đời, giữ cái nghĩa!  Sống đời, giữ cái  tình!
Đừng quên:  ta chúng sinh, tiếp nối từng thế hệ.
Chúng ta buông... ích kỷ...
 
Lau giọt lệ rơi dài,
ướt lạnh cõi trần ai... Đó, lúc ta quên Chúa...
Nên... con công hay múa!
 
Chúng ta cần nhung lụa / để... cũng múa như công?
Chúng ta thành người dưng... từng hồi chuông chiều đổ,
nhắc gì?  Cho ta nhớ...
 
*
Đường Quê Hương rực rở!  Dừng lại, ngắm đóa hoa...
 
Hoa như người, trẻ, già, tại sao hoa... không chết?  Con tàu rời Phan Thiết... tiếng còi vang trong mây...
 
Cà Beu, bên gốc cây: Người Thượng ngồi hút thuốc... Con đường rừng nẻo thuộc, con nai tác chiều hôm... Tiếng con nai như chuông...
 
Đổ từng hồi giác ngộ, Chúa nói hôm nay khổ, trọn vẹn cho hôm nay... Bạn ơi mình nắm tay / ngắm hoa vàng bên suối...
 
... rồi em ngồi, chân duỗi, anh hôn ngón út nha... Trăng lên rồi trăng tà.  Nguyệt tàn rồi nguyệt tận... Hoa thông vàng bay phấn!
 
Em!  Anh yêu em lắm, nói như ngày hôm qua...
 
                                                                                         Trần Vấn Lệ