https://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn1ntnqn4n31n343tq83a3q3m3237nvn&AspxAutoDetectCookieSupport=1
HOÀNG
TRÚC LY (1933-1983): HÀNH TRÌNH PHIÊU BẠT CỦA MỘT THIÊN TÀI THI CA Phan Bá Thụy Dương
Nhiều người chỉ biết Hoàng Trúc Ly qua những bài thơ đăng trên các báo, các tạp chí từ 1955 và về sau là thi tập duy nhất: Trong Cơn Yêu Dấu của anh, do nhà xuất bản Hướng Dương trên đương Lê Lợi ấn hành năm 1963, do họa sĩ Trịnh Cung vẽ bìa. Tác phẩm thi ca này còn khiêm nhường hơn nhiều so với số trang trong tập thơ Bi Ca của Hoài Thương – người phụ trách trang thơ của bán nguyệt san Thời Nay phát hành một năm trước TCYD chỉ vỏn vẹn có 38 trang với 22 bài thơ in trên khổ giấy lớn 21×25.
Nhiều người chỉ biết Hoàng Trúc Ly qua những bài thơ đăng trên các báo, các tạp chí từ 1955 và về sau là thi tập duy nhất: Trong Cơn Yêu Dấu của anh, do nhà xuất bản Hướng Dương trên đương Lê Lợi ấn hành năm 1963, do họa sĩ Trịnh Cung vẽ bìa. Tác phẩm thi ca này còn khiêm nhường hơn nhiều so với số trang trong tập thơ Bi Ca của Hoài Thương – người phụ trách trang thơ của bán nguyệt san Thời Nay phát hành một năm trước TCYD chỉ vỏn vẹn có 38 trang với 22 bài thơ in trên khổ giấy lớn 21×25.
Còn về sách, theo tôi, chỉ riêng trong năm 1967 anh đã
cho ấn hành – ít nhất, 2 tác phẩm văn là Tiếng
Hát Lang Thang và Huyền Sử Một Kiếp Hoa. Ở hải ngoại tôi
còn biết một tác phẩm khác của anh là cuốn Trạng Quỳnh cũng đã được một nhà xuất
bản ở Houston – TX in lại vào năm 1984. Chưa kể những tập truyện cổ tích, truyền
kỳ, sách thiếu nhi… hấp dẫn, luôn lối cuốn đọc giả do các chủ nhà in người Tàu
cho phát hành từng kỳ hàng tuần trong thập niên 60 và đầu 70
Cũng như Trần Tuấn Kiệt, sách của Hoàng Trúc Ly viết
cũng thường giao cho ông Khai Trí vì ông này là mạnh thường quân chính của 2
người. Không phải người chủ nhà sách lớn này luôn luôn cho in ấn các tác phẩm của
2 anh, mà vì thấy họ luôn thiếu thốn nên ông tìm cách trợ giúp, ngay dù cả khi
họ “ham vui” quên cả việc sáng tác, nhất là Hoàng Trúc Ly. Bởi từ đầu thập niên
60 ngoài việc thích rượu anh còn dấn thân vào việc “hít-tô-phe” tức nằm bên bàn
đèn “hít cho phẻ” với ông Ngọc Tú – tức nhà văn Ngọc Thứ Lang, người dịch cuốn
“Bố Già” rất nổi tiếng và được nhiều người hâm mộ thời bấy giờ.
Hoàng Trúc Ly tên thật là Đinh Đắc Nghĩa, sinh năm
1933 tại Đà Nẳng, nguyên quán Bình Định. Nghe nói sau khi đậu bằng tú tài Pháp
[Baccaleauréat complet] anh đã ghi danh vào trường Luật, nhưng chẳng được bao
lâu thì bỏ học vì không khí chật hẹp, nóng bức, chẳng thoải mái của các giảng
đường. Anh là người trầm lặng, hiền hòa, ít thố lộ về cuộc đời riêng tư của
mình và gia đình. Nhưng khi gặp bằng hữu thân thiết thì anh cười, mừng ra mặt,
ánh mắt sáng ngời. Theo tôi, có thể bởi anh thường sống cô độc, trầm tư một
mình, nên sợ cô đơn, cần có bạn bè để hàn huyên cho vơi bớt khỏang trống trong tâm
tư.
Dù thân phụ anh là cụ Đinh Thúc Kiện có nhà ở trong
khu Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến trên đường Cống Quỳnh hay sau này anh
thuê gác trọ bên đường Nguyễn Cư Trinh, Hoàng Trúc Ly vẫn hay đi bộ lang thang,
độc hành dưới bóng chiều tà rồi tiện đường thì ghé ngủ đêm với bạn bè. Anh là
người giao du rộng rãi, quen biết gần như hầu hết các văn nghệ sĩ, lại được họ
quí mến bởi tánh hiền lành, chân thật của anh, nên mọi người ai cũng vui vẻ sẳn
sàng tiếp đón. Chẳng hạn như nhà Hoài Điệp Tử ở khu Bùi Viện, nhà anh Phượng Hải
ở khu Lò Gốm – Bình Tiên, Hồ Thành Đức ở Phan Thanh Giảng, Trần Tuấn Kiệt ở đường
Phan Đình Phùng… và thỉnh thoảng ngủ lại nhà tôi khi quá chén. Những lần như vậy
thì sáng tinh sương anh đã bỏ đi trong khi tôi còn đang ngon giấc.
Kế đình Phú Thạnh không xa có ông giáo Tư người Long
An, ngâm rượu thuốc, rượu mít nướng – mà anh và Kiệt luôn cho rằng rượu của ông
giáo này rất thơm ngon, đậm đà. Nên mỗi khi có mặt anh Anh Thuần hay tôi ở nhà
là anh tha hồ uống. Anh Việt Thu, hai anh Phạm Lê Phan và Tường Linh cũng thích
và khen 2 loại rượu “nước mắt quê hương” này. Tôi thì chịu không dám thử, vì ngửi
qua cũng biết độ rượu rất cao, cay nồng. Bởi vậy khi phải đối tửu thì các anh ấy
khề khà cạn sạch 3, 4 chung tôi cũng chưa nốc xong ly 33 của mình. Tôi còn một
điều dở nữa là rất kỵ mấy món “mộc tồn” hay “nai đồng quê”, thịt rùa, rắn, tiết
canh, trong khi các anh coi là các món nhấm khoái khẩu, cao cấp. Do đó anh Phạm
Lê Phan – người lớn tuổi nhất trong đám, thường mắng đùa: “Chơi với cậu chán bỏ
mẹ. Đi câu thì bị cá chê mồi, uống với nhau thì cậu sợ món này món nọ, chẳng được
cái tích sự gì cả. Người gì mà nói hoài mà cũng không biết phục thiện.”
Tửu lượng của tôi thuộc hạng rất tồi do đó thân hữu
thường liệt, cho là hạng “lục lục thường tài”. Trong khi những bạn thơ, văn
khác của anh đều là các tay hủ chìm, hủ nổi mà tôi chẳng mấy khi dám gặp, vì sợ
kiểu uống liên tu bất tận của nhiều vị kiện tướng trong số các tay văn nghệ sĩ
này. Chẳng hạn như: Trần Tuấn Kiệt, Phan Yến Linh, Hoài Điệp Tử, Nguyễn Thụy
Long, Phạm Quốc Bảo, Bùi Ngọc Tuấn, Dương Trữ La (Tâm Đạm), Khánh Giang, Phượng
Hải, Hoài Điệp Tử, Anh Thuần, Anh Hợp, Tạ Ký, Hoàng Anh Tuấn, Hoàng Ngọc
Liên, Hải Phương, Hồ Thành Đức, Tô Kiều Phương, Hoàng Thắng, Nguyễn Thu Minh,
Anh Việt Thu, Thiên Hà, Lâm Tường Dũ, Trần Xuân Thành, Phương Triều…
Vả lại trước năm 71 tôi còn bận quân vụ, lại chỉ là kẻ
viết lách tài tử, làm báo tùy hứng bằng nghề tay trái. Khác hẳn với đa số các
anh kể trên là dân viết chuyên nghiệp. Vì thế tôi chẳng mấy khi góp mặt trong
các cuộc vui đông người. Năm 72 sau khi tôi được chuyển về làm công chức không
lâu, thừa dịp chính phủ ra nghị định bắt buộc quân nhân, công chức nếu muốn tiếp
tục hành nghề báo chí thì phải xin phép, tôi ngưng luôn. Dù lệnh này chỉ mang
tính chất tượng trưng, chẳng có mấy người tuân thủ. Từ đó tôi ít gặp lại anh em
vì sợ sẽ bị bị rủ rê trở lại trò chơi văn nghệ mà tôi đã hết hứng thú. Ngay cả
với các anh Hoàng Trúc Ly,Tường Linh, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên, Trần Tuấn Kiệt là
những người tôi rất thân kính.
Hoàng Trúc Ly tuy ít nói nhưng tính dễ chịu, thường
hay kể chuyện vui, tích lạ, nên 2 đứa con tôi và cô cháu gái giúp việc cho gia
đình tôi rất thích. Mỗi lần bác Hoàng tới nhà là cháu gái này mừng rở, lo phục
dịch chu đáo, cả những lúc tôi vắng nhà. Cũng có khi anh đi biền biệt vài ba
tháng không trở lại. Nhớ anh tôi chỉ cần chạy đến quán café Năm Dưỡng nằm bên
góc Nguyễn Thiện Thuật – Hồng Thập Tự, gần nhà Tam Ích tiên sinh là có thể gặp
anh. Nếu không thì ở các quán bên lề dọc theo các đường Gia Long, Phạm Ngũ Lão,
Võ Tánh hoặc khu chợ Đủi… Đó là những địa điểm anh thường đến chung vui cùng
thân hữu.
Buổi trưa khi cảm thấy trống vắng, anh thường vào nằm
nghỉ trên ghế đá trong công viên Tao Đàn – góc đường Lê Văn Duyệt và Hồng Thập
Tự. Nghe anh em cho biết Hoàng Trúc Ly ngoài việc viết sách, đôi khi còn làm việc
bán thời gian cho CLB Cercle – tức sân quần vợt sát bên công viên này và sau
lưng dinh Độc lập. Anh chẳng đề cập đến, nên tôi cũng chẳng hỏi.
●●●
Hoàng Trúc Ly qua đời ngày 23 tháng 12 năm 1983 [nhằm
ngày 20 tháng 11 âm lịch] tại Sàigòn vì một người lái xe bất cẩn đụng phải khi
anh băng qua đường Bùi thị Xuân.
Mặc dù giao du thân thiết với HTL nhiều năm tôi chỉ vừa
được biết tên thân mẩu anh là bà Đào Tiểu Tố – bút hiệu Như Cúc. Bà là cháu nội
của vị danh sĩ Đào Tấn (1845-1907), Bà được sinh ra tại Bình Định năm 1910 và
hiện sống tại SG. Dưới đây là bài thơ bà Đào đã làm để thương khóc con:
NGÀY
GIỖ CON
(Đắc
Nghĩa Hoàng Trúc Ly)
Gió
bạt mưa ngàn con ở đâu
Nắng
hanh ngọn cỏ chắc con sầu
Con
ơi! mẹ nhớ ngày sum hiệp
Dáng
trẻ thân gầy áo sổ bâu.
Đắc
Nghĩa con ơi đã mất rồi
Ớ
tình ớ cảnh ớ con ơi
Trở
trời trái nắng ai săn sóc
Trẻ
dại con đành bỏ mẹ thôi.
Mồ
con mẹ đã xây rồi
Thôi
thì con ráng ngủ đi thôi
Ngàn
thu vĩnh biệt con xa mẹ
Tóc
bạc da mồi đã vắng con.
Đào Tố Tố
Em gái anh là cô Đinh Thị Xuân Hương tức nhà thơ Đinh
Hương vừa qua đã gom góp thơ anh để xuất bản mà tên sách nghe thật lạ lùng: Người
Lớn Từ Biệt Trẻ Con. Trong thi tập mới này có một số thơ mà người xuất bản cho
rằng đó là các tác phẩm của HTL chưa phổ biến. Tôi đọc qua vài bài và nhận thấy
không giống phong vị của anh bao nhiêu nên không đề cập đến. Cô này cũng có vài
tác phẩm đã ấn hành tại SG.
Quanh HTL có nhiều huyền thoại về cuộc sống của anh và
những nhân vật nữ trong các bài thơ của anh, nhất là nhân vật Hoàng Lan mà anh
ví von là “hoa của trăm hoa”:
HOÀNG
LAN
Có
phải vì em đang gỡ tóc
Cho
mây từng sợi rối chân chim
Có
phải hoa bay đầy cánh bướm
Vì
em thay áo mái tây hiên
Ôi
mới hôm nào như hôm qua
Tay
ai bùa phép nắm đôi ta
Như
nắm mùa đông hơ ngọn lửa
Cho
tuyết đầu non chảy máu ra
Ôi
mới hôm nào như hôm kia
Con
đường chở nặng những đêm khuya
Cho
nên bóng tối bay thành khói
Ánh mắt mờ sương lạc lối về
Ôi
có hôm nào là hôm nay
Anh ghen vì gió đã choàng vai
Em
đi như vẽ trên đường nắng
Em
nói như đàn trong miệng ai
Anh
là dòng sông mơ chín suối
Em
là mặt trăng thèm mặt trời
Cách
trở bốn mùa vây trái đất
Còn
nghe đau xót thuở nào nguôi?
Họa sĩ Hồ Thành Đức cho biết anh đã từng đi cùng HTL đến
nhà cô nữ sinh này. Cô sống tại Gò Vấp và đặc biệt là có mái tóc rất dài và óng
ả, mượt mà, nhưng nhan sắc thì chỉ “thường thường bậc trung”. Đến đó họ Hoàng
không vào mà chỉ đứng lặng lẽ ngoài đường ung dung nhìn vào. Còn một giai thoại
khác mà nhiều người thường nhắc nhở đến sau khi 2 bài thơ lục bát tuyệt hảo dưới
đây ra đời:
CA
SĨ 1
Từ
em tiếng hát lên trời
Tay
xoa dòng tóc, tay vời âm thanh
Giọt buồn chẻ xuống hồn anh
Lắng
nghe da thịt tan tành xưa sau
Trời
em tiếng hát lên từ
Âm
ba tóc rối lững lờ vòng tay
Áo
dài lùa nắng vào mây
Dấu
chân hồng nhạn rụng đầy gió sương.
Hai bài thơ ngắn này nhiều người cho là Hoàng Trúc Ly
viết tặng nữ ca sĩ Thanh Thúy – hình minh họa trên, tranh vẽ chân dung TT của nữ
họa sĩ Thanh Trí. Bởi từ đó về sau, giới báo chí, văn nghệ đã đặt cho giọng ca
Thanh Thuý nào là Tiếng hát liêu trai, Tiếng hát khói sương. Bên cạnh Tiếng hát
lên trời của Hoàng Trúc Ly còn có Tiếng hát lúc không giờ là danh hiệu mà nhà
văn Mai Thảo đã tặng cho cô ca sĩ có giọng ca đầm ấm quyến rủ này.
Nhưng cũng có người cho là anh viết về nữ ca sĩ Thái
Thanh. Tôi và Trần Tuấn Kiệt đã yêu cầu anh xác nhận, nhưng HTL chỉ mỉn cười nhỏ
nhẹ đáp: “thơ moa làm xong ai muốn nhận là moa viết tặng riêng họ thì cũng chẳng
sao, càng tốt.” Riêng anh Anh Thuần thì cho rằng 2 bài thơ trên HTL viết tặng một
nữ danh ca khác mà tôi không tiện nêu tên. Cô này là vợ của một nhạc sĩ nổi
danh. Vợ chồng họ là chủ một nhà sách và nhà chuyên xuất bản nhạc lớn, nằm gần
đầu đường Trần Hưng Đạo quận 1 mà anh Anh Thuần chơi rất thân với cả 3 người
trong cuộc.
Chân dung Thanh Thúy qua Thanh Trí
Còn một bài nhị thập bát tú khác dưới đây mà có người cho là bài CA SĨ 2:
mùa
Xuân còn gì thưa em
sáu
giây rét mướt chưa mềm trăng khơi
cô
đơn đỉnh núi gần trời
nghiêng
vai xin khoác nụ cười áo xanh.
Tôi đồng ý với quan điểm của TTK để cho rằng bài này vốn
mang tựa Nghĩ Về Tỳ Bà Hành. Thiển nghĩ những dòng thơ trên diển tả về một nhạc
khí cổ thì đúng hơn là nói về dung nhan ca sĩ. Nhưng cũng không biết chừng
chính anh HTL tự sửa lại tên bài thơ. Bởi nhiều tác giả cũng hay làm điều này
sau khi thơ mình phổ biến một thời gian. Nhuận sắc, thay thế một số chữ, vài
câu trong bài thơ là chuyện thường thấy, do đó ngay một bài thơ đôi khi chúng
ta thấy có đến mấy dị bản.
Thơ Hoàng Trúc Ly có nhiều bài đầy chất sáng tạo, mới
mẽ, mang sắc thái tuyệt mỹ, xuất thần với những thi ngữ hay mỹ từ pháp, thi ảnh
tinh khôi, sống động. Thơ anh nhiều nhạc tính, âm vận uyển chuyển dể rung cảm.
Thơ HTL còn chan chứa chất lãng mạn trữ tình và tiềm tàng ý niệm hoài nghi
ray rức, ngậm ngù, đôi khi ẩn lộ nét phóng đảng, an nhiên:
HÀNH
TRÌNH
1.
tôi
nay đi giữa hoang đường
niềm
đau thân thể tủi buồn hai vai
giật
mình nước mắt tương lai
ngày
qua và tiếng thở dài xuống thu
2.
toa
xe cửa khép khung trời
người
đi môi đỏ run lời tiễn đưa
tóc
dài xõa mộng ngày xưa
vết
thương kỷ niệm bây giờ lại đau
3.
khuya
đi dù biết về đâu?
nghiêng
vai còn mãi tiếng sầu vọng âm
đường
xưa trải nhớ nhung thầm
ngôi
sao yểu mệnh căm căm cuối trời
4.
qua
đây từng giọt buồn phiền
mắt
em cổ thụ thâm xuyên gọi mời
bãi
hoang cồn dựng bể khơi
xuôi
tay xin gởi miệng cười mộng du
5.
tôi
ơi tôi mãi tôi còn
trái
tim bé nhỏ nỗi buồn chung thân
nhớ
gì vết cỏ bàn chân
lối
đi thơ dại đêm gần tịch liêu.
Nhà thơ Phạm Công Thiện đã từng phát biểu:
“Thơ
Hoàng Trúc Ly có ma lực kỳ quái của những câu phù chú. Đối với Hoàng Trúc Ly,
ngôn ngữ hãy còn mới tinh. Mỗi chữ đều mang một linh hồn, mỗi chữ là một sinh vật.
Tôi gọi Hoàng Trúc Ly là thi sĩ lớn, là nhà thơ bậc thầy của thi ca hiện đại”.
Lời nhận định trên quả đã diển tả trọn vẹn về thiên
tài thi ca của nhà thơ lỗi lạc họ Hoàng tức Đinh Đắc Nghĩa này.
●●●
Trong Cơn Yêu Dấu của anh được ấn hành năm 63 và ra mắt
sách tại quán Xinh Xinh trên đường Phan Đình Phùng. Vì chỉ tổ chức trong vòng thân
hữu nên chẳng có bao nhiêu người được tham dự. Theo Hải Phương, người bạn thơ
thâm giao của HTL, thì buổi ra mắt sách này đã được tài trợ bởi một nữ thương
gia cư ngụ tại Phan Thiết. Vị nữ nhân này vốn là bạn quen thân với thi sĩ Bích
Khê và là người rất ái mộ thơ anh.
Khi đề cập đến TCYD học giả Tam Ích – một trong những
người sớm phát hiện tài năng cũa anh, đã nói: “Hoàng Trúc Ly đã và đang làm mọi
người ngạc nhiên ít nhất là một lần nữa về thiên tài của mình.”
Giờ đây, nhờ mẹ và em gái anh, chúng ta có thể xác định
được ngày sinh với tử của anh một cách rõ ràng: Hoàng Trúc Ly sinh ngày 14
tháng 4 năm 1933 và qua đời 2 ngày trước lễ Giáng sinh năm 1983 như đã viết ở
trên, chứ không phải như vài cây bút hải ngoại đã nhầm lẫn loan truyền bấy lâu
nay là 1937-1985.
Tôi quen anh trong một dịp tình cờ. Số là vào đầu năm
1963, vừa lảnh lương xong vừa được nghỉ phép, nên khi từ trường SQTB/Thủ Đức về
tôi bèn chạy ngay đến tòa soạn Phổ Thông rủ Trần Tuấn Kiệt và Nguyễn Thu Minh
đi sang tuần báo Ngày Mới của nhà báo lảo thành Cồ Việt Tử (Nguyễn Duy Hinh) để kéo thêm anh Anh Thuần
đi Kim Sơn. Thu Minh vì là Thư ký Tòa Soạn hôm đó lại gặp ngày báo sắp ra nên
chỉ có Kiệt theo tôi. Đến báo Ngày Mới thì thấy Anh Thuần và Hoàng Trúc Ly đang
ngồi vừa nhâm nhi cà phê vừa đọc báo. Đó là lần đầu tiên tôi quen biết Hoàng
Trúc Ly qua sự giới thiệu của anh tôi và Trần Tuấn Kiệt. Lúc đó tôi nhận thấy
anh hơi gầy yếu, xanh xao, tánh tình hòa nhã, khiêm tốn, dễ thân thiện. Đôi mắt
tuy trong sáng nhưng ẩn màu mang mang xa vắng.
Sau khi thôi làm việc một thời gian tại Ohio, đến năm
2005 nhân cơ hội các con tôi vừa cho xây cất xong ngôi nhà mới ở bên kia cầu chử
Y, tôi bay về để xem có thể dưởng hưu ở Saigon hay không, đồng thời giúp thân
nhân lo việc dời nghĩa trang giòng họ ra khỏi thị trấn L.H – nơi quê nhà, theo
lệnh của chính quyền địa phương.
Gặp lại 2 anh TL và Trần Tuấn Kiệt tôi mới biết được
Phạm Lê Phan của phòng Văn Nghệ QĐ năm nào đã mất lâu rồi tại một khu Kinh tế mới
hẻo lánh trong vùng rừng núi Định Quán. Còn Hoàng Trúc Ly mấy năm sau cũng nối
gót “đi” theo kịch tác gia họ Phạm. Trước khi tôi trở lại Hoa kỳ, Trần Tuấn Kiệt
và tôi mỗi người đã làm một bài thơ tưởng niệm Hoàng Trúc Ly. Đây là những dòng
tôi viết cho anh – một hiền huynh chí tình, mà tôi luôn kính trọng, quí mến:
BÀI TƯỞNG NIỆM HOÀNG TRÚC
LY
(gởi Trần Tuấn Kiệt)
bụi
trần phủ áo phong sương
mà người nay đã hà phương thăng trầm
rượu
nồng tưởng niệm cố nhân
ngàn
chung cay ngọt một lần từ ly
hỏi
người, người đã bỏ đi
nằm trong đáy mộ có gì nhớ thương
tóc
bồng nẻo vắng cô đơn
một thân lưu lạc u hồn lạnh mê
người
xa chưa lạc lối về
sao
hiền huynh chẳng chờ nghe đôi lời
ngủ yên Hoàng Trúc Ly ơi
chuyển
thân hóa kiếp đời đời cuồng say
rượu
ngon còn một chai này
hãy chia nhau chút men cay thâm tình
cõi
trần dẫu có điêu linh
cõi hư vô hẳn hồi sinh non Bồng.
●●●
Sau khi biết tin Hoàng Trúc Ly đã nằm xuống tôi cứ
nghĩ đến 2 câu thơ mang mang niềm hoài niệm của cụ Vũ Đình Liên: “Những người muôn năm cũ . Hồn ở đâu bây giờ
?”. Rồi chạnh nhớ tới Anh Việt Thu, Phạm Lê Phan, nhớ những người đã âm thầm
ra đi mang theo những kỷ niệm đáng trân quí, khó quên của một đời người. Anh Việt
Thu thì vĩnh viễn yên giấc trong một khu vườn xoài tại làng An Hữu quận Giáo Đức
cách cầu Mỹ Thuận không xa. Phạm Lê Phan thì chắc vẫn đang lạnh lẽo nằm dưới mộ
trong một sơn khê vắng vẻ, thưa thớt bóng người. Hoàng Trúc Ly may mắn hơn vì
được chôn cất gần thành phố nơi mà gót chân anh đã từng lưu dấu bao năm dài qua
những ngày mưa ngày nắng.
Nếu chúng ta tin rằng con người sau khi mất đi phần
linh hồn vẫn còn vấn vương nơi trần thế hoặc siêu thoát về một cõi vô minh miên
viễn nào đó, thì bây giờ thân xác các anh hẳn đã tan hoá trở thành cát bụi
trong lòng đất, vậy thì hồn các anh giờ này đang ở đâu? Họ có còn nhớ đến những
ân tình, hệ lụy trong tiền căn để quanh quẩn, quấn quít bên những người thân
yêu? Hay là họ đã hoàn toàn trút bỏ, quên lãng quá khứ để hồn mình bềnh bồng
phiêu bạt theo cỏ nội mây ngàn, vui với tiếng chim hót, gió ru trong cõi an
nhiên vô ưu, vô úy?
Tạ Ký tác giả thi tập Sầu Ở Lại đã từng nhận xét về những
vần thơ mang niềm cay đắng như 2 bài không có trong tập TCYD dưới đây của Hoàng
Trúc Ly như sau: “Tạ Ký còn can đảm kiên nhẫn viết ra một trang năm ba chục câu
thơ. Đến như Hoàng Trúc Ly, ông chỉ viết bốn câu, sáu câu. Ấy bởi vì cái thứ rượu
ông dọn ra là cái loại rượu quá chát. Kẻ tửu lượng thượng thừa, cũng chỉ nhấm
vài giọt là choáng váng tối tăm mày mặt.”
Ở
SÀI GÒN
Soi
gương lạ mặt bao giờ
Nửa
đêm lãng đãng tôi mờ bóng tôi
Ở
đây vụng dại với người
Nghiến
răng nhai mãi nửa lời vô duyên
CÕI
DÂN THÂN
Tôi
còn yêu cho biển còn xanh
Mây
còn bay cho chim chắp cánh
Ngựa
què rồi em cởi lưng anh
Tôi
cứ yêu khốn nạn cứ cười
Chim
cứ bay cho mây gãy cánh
Em
chết rồi ai ám sát tôi ?
Nhiều người đã nói, đã phân tích, nhận định về thơ
Hoàng Trúc Ly, nên trong bài này tôi chỉ đề cập đến anh qua những giao tình cá
nhân, những kỷ niệm một thời giữa tôi và con người luôn phiêu bạt này. HTL là một
thi sĩ lỗi lạc, đọc qua thơ anh ai cũng dể cảm nhận những điểm nổi bật, sâu sắc
để tự đánh giá sự khác biệt giữa thi ca của anh với thi ca của những người hữu
danh cùng thời, trong giai đoạn 50-75.
Viết đến đây tôi nghĩ, tôi có thể mượn những lời nhận
định sâu sắc về thơ Hoàng Trúc Ly của nhà phê bình văn học Đặng Tiến để kết
thúc bài này:
“…Thơ
Hoàng Trúc Ly có cái bình thản âu yếm của kẻ đã đạt tới đạo, hiểu theo nghĩa
Đông Phương: y hồ thiên lý, nhân kỳ cố nhiên. Văn chương hiện đại là một thứ
văn chương sáng suốt, nghĩa là một thứ gương phản chiếu. Thơ Hoàng Trúc Ly trái
lại chỉ là một khối thủy tinh, không trả lại hình ảnh nào, không đón đợi mà
cũng không phải là không đón đợi, chỉ biết thích ứng với tất cả những gì đến với
mình. Như thế tâm hồn Hoàng Trúc Ly đã đạt đến hạnh phúc tối cao, đã liên hợp
được cái ngã và cái vô ngã trong sự thong dong không bờ bến.
…Trong
thi ca Hoàng Trúc Ly giữ một địa vị đặc biệt. Địa vị của thi sĩ dường như vượt
lên hẳn các trường phái thi ca; ngôn ngữ của ông tươi mát, mới mẻ, trong sáng, ở
một giai đoạn mà Tây phương cũng đang biến thi ca thành tiếng hát.
…Trước
cuộc đời, Hoàng Trúc Ly chỉ đóng vai người khách hào hoa phong nhã. Thi sĩ đã trở lại đời
sống thanh thoát của nhà hiền triết Đông Phương. Ngôn ngữ tân kỳ ảnh hưởng của
Tây phương, nhờ đó, đã chắp cánh để bay vút lên cao.”
(Đặng
Tiến * Hoàng Trúc Ly: Nụ cười trong và đôi mắt sáng)
Diễn dịch thêm thơ của người thi sĩ tài hoa, phiêu bạt
này – theo tôi – là một điều phí phạm. Phí phạm thêm thì giờ của người đọc.
PHAN BÁ THỤY DƯƠNG
*
Dưới đây là một số thi phẩm, những áng thơ hay, tiêu
biểu của Hoàng Trúc Ly được nhiều người ưa thích, truyền tụng:
HÀNG
CÂY BÊN ĐƯỜNG
người
yêu tóc xõa tròn vai
nửa
đêm da thịt quên cài áo khuya
xác
thân rã mục lời thề
mùa
đi lá rụng đường về xuân thu
VĨNH
BIỆT
rồi
mai khởi sự xa đời
chuyến
xe trăm tuổi đưa người nghìn năm
trăng
sao bốc cháy chỗ nằm
áo
xanh mây lá vết bầm núi non.
NẰM
MỘNG THẤY NỮ SINH
(Tặng
HOA của trăm hoa)
Ta
từ giấc mộng bước gần em
Đường
phố đầy trăng hay mặt trời chìm
Ô
hay con gái bay nhiều quá
Hai
cánh tay mềm như cánh chim
Như
cuống của hoa như cội của cành
Em
đến bao giờ là em của anh
Thôi
đã vô cùng cô liêu bóng cả
Như
chim xa rừng tội nghiệp rừng xanh
Tuyệt
mù giấc mộng mỏng như sương
Vai
áo hào hoa tê tê bụi đường
Ra
đi ta đắp lên sông núi
Trời
rộng sông dài nỗi nhớ thương
GẶP
NGƯỜI EM
Những
người xưa đi rồi không về nữa
Một
mình anh lại gặp một mình em
Chiều
lửng lơ nghe nắng rụng bên thềm
Em
cúi mặt mắt buồn ươn ướt đỏ
Nhà
anh nghèo, anh đau tim anh yếu phổi
Đời
anh lạnh lùng bốn hướng gió và mưa
Ta
lạc nhau từ em còn bé nhỏ
Anh
thương em câm nín đến bao giờ.
Bởi
vì đâu da em xanh giá rét?
Nắng
rưng vàng lên mái tóc mồ côi
Ngày
giặc giã quê hương mình mỏi mệt
Mười
năm qua hình ảnh có ngậm ngùi [*]
Nhà
anh nghèo, anh đau tim anh yếu phổi
Em
bềnh bồng, anh phiêu lãng về đâu
Không
dĩ vãng cho đêm dài đợi sang
Không
mai sau cho nước chảy qua cầu
Em
bảo anh người đi không trở lại
Nấm
mồ ai như giọt lệ chưa tan
Ngọn
gió nào mang anh vào mộng mị
Em
giang hồ làm tiếng hát lang thang
Ta
đến bên nhau sao chùng bước mỏi
Lời
sắp xé môi sao bỗng nghẹn lời
Anh
nhớ em: núi cao càng hiu hắt
Anh
thương em: máu vọt bốn phương trời
(*) Bài đăng trên báo Cải Tạo năm 1956 đến đây là dứt.
Theo Trần Tuấn Kiệt 12 câu sau Hoàng Trúc Ly đã làm thêm vào giữa thập niên 60
khi HTL cần phổ biến lại.
TÌNH
ĐẦY
Gió
lạnh mười năm lạnh lắm rồi
Vườn
dâu cô gái hái dâu ơi!
Quê
hương xa lắm dòng sông lạnh
Lẩy
bẩy chiều mưa bến lạnh người
XÓM
XÓM NHÀ TA
Nhớ
buổi hoa bay bừng nắng hạ
Môi
em thơm mãi gió giang hồ
Áo
thêu màu lá xanh như lá
Nhịp
lướt nhịp nhàng vai nhấp nhô
Giờ
đã mấy mùa thu lã chã
Đã
mấy mùa thu vèo lá bay
Thương
kẻ một đi là tất cả
Năm
năm sông nghẹn sóng lưu đày
Ôi
một mùa thu đẹp mắt huyền
Em
về vui hội lá hoa duyên
Quê
xưa tang tóc tàn đi hết
Trong
ánh trăng này mộng ngủ yên
(Hai bài cuối này được Hoàng Trúc Ly sáng tác về sau
1963 nên không nằm trong Trong Cơn Yêu Dấu)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét