CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 28 tháng 1, 2025

MẤY TRĂM LẦN, MÙA XUÂN – Thơ Khê Kinh Kha


   
                  Nhà thơ Khê Kinh Kha

 
mấy trăm lần, mùa xuân
 
mùa xuân đã đến
quanh đây bao giờ
mà lòng thờ ơ
tim đau nỗi nhớ
hồn đầy dại mê
lạnh lùng tuyết rơi
ngậm ngùi sương rơi
quê hương xa vời
bao năm bao năm
ngục tù gông xiềng
tuồi trẻ đi hoang
tương lai hoang tàn
dân tôi bần cùng
 
mấy bữa đầu xuân ngồi nhìn tuyết rụng
xuân cứ như vầy chán chết đi thôi
phải chi có bạn cùng chia rượu đắng
chắc cũng đỡ buồn giữa chốn xa xôi
 
đã mấy trăm lần, nhìn hoa cúc nở
đã mấy trăm lần, lòng vắng như đêm
đã mấy trăm lần, rượu say, nằm ngủ
tỉnh dậy lại buồn, uống nữa cho quên
 
đã mấy trăm lần, hứa lòng không khóc
đã mấy trăm lần, nước mắt cứ trôi
xuân đến xuân đi, đời còn mấy bước ?
ai khóc ai cười, nhìn cánh mai rơi
 
non nước xa vời, giọt lệ trong tôi
 
                                        KheKinhKha

HƯƠNG XƯA, ĐÓN XUÂN NƠI XỨ LẠ - Thơ Nguyên Lạc


   

 
Hương Xưa
 
1
Đêm trôi. Mi khép. Khúc trầm rơi
Thê thiết "Hương xưa" vọng một thời
Đón Tết nơi nầy đêm trắng quá
Não nùng tuyết lệ nhớ khôn nguôi!
 
2
Mùa xuân lần nữa đã về đây
Riêng nỗi hoài hương đối sầu này
Người hỡi có mơ về chốn cũ?
Túy hương đêm vỡ khúc tình đầy!
 

TẾT CHAY – Thơ Lê Phước Sinh


    


TẾT CHAY
 
Đèn nào mà không quay (?!)
chỉ vì không đủ gió.
Xe nhúc nhích rồi động,
ngao ngán gặp đèn đỏ.
 
Bến Hoa sắp úa tàn,
ngóng gặp người mua bán.
Chỉ dạo vòng chơi chơi,
vì thiếu Tệ trong túi.
 
Trời trong xanh mà nhiễm.
Miệng bịt kín khẩu trang,
Tiếng còi nghe thin thít,
tưởng lạc chốn thiên đàng.
 
Càng giáp Tết,"Thầy Chạy" (!)
tựa phong pháo ẩm xì,
Tết Chay mà thèm mặn,
Trẻ con khóc ỉ ôi...
 
Lê Phước Sinh
Sài gòn, sáng 27 tháng Chạp.

ĐOẢN CÚ MÙA XUÂN, NĂM LÀ THÁNG, CANH GÀ, ĐÃ QUA, PHƯƠNG NAM, LÊN NON, KHÔNG CÓ CÂU TRẢ LỜI, NGÀY NAY NGÀY MƠI, ĐẦU THU CUỐI THU, NƯỚC CHẨY – Thơ Chu Vương Miện



 
 
ĐOẢN CÚ MÙA XUÂN
 
Lá đã rơi hết trên đất
nụ đang căng da
mấy con chim non há miệng
chiêm chiếp gọi xuân về ?
ngừơì lữ hành đứng một mình hút thuốc
ngoài sân ga ?
ta nằm đắp chăn mà chưa ngủ
băn khoăn về tuổi già
bản nhạc nghe hoài mà chả cảm
lẩm nhẩm hoài mỗi bài thơ ?
ngừơì xưa ngừơì cũ giờ đâu nhỉ ?
đâu khác nhân vật Quỳnh Diều trong thố ty hoa
đọc mấy câu thơ dịch cảm thương Liêu Quốc Nhĩ
khi không lại chia nửa sơn hà ?
chợ nam chợ trung và chợ bắc
hoa mai thược dược và trúc đào
cây súng đứng rủ lá trên mặt nước
con cá mại cờ dưới lòng ao ?
ta mang tuổi thơ mang thả từ thuả đó ?
giờ tìm chả có một âm hao
cũng vẫn là hoa là xuân
mà xa cách nhau một biển nước
bên nhà giao thừa và tết đến trước ?
bên này thời lẽo đẽo tới sau ?
chờ mãi chả có thư từ gì cả
chả lẽ chúng mình kiếp này lỡ nhau ?
 

Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2025

CHÙM THƠ XUÂN CỦA LA THỤY


   

 
TỰ CẢM CUỐI NĂM
 
 Dặm trường rong ruổi ngựa phi
 Thời gian vút cánh xuân thì hụt hao
 Chồn chân dừng bước bên cầu
 Lặng nhìn nước chảy nuối màu tóc xưa
 Cánh buồm lộng gió ước mơ
 Băng qua sông biển cập bờ nơi nao?
 Vọng âm sóng vỗ dạt dào
 Bên chiều đông tận nắng đào dần phai
 Hoa tóc sương muối đang cài
 Tàn niên tự cảm thoảng bay tiếng lòng
                               
 
 CUỐI NĂM ÂM LỊCH
(Cảm đề thơ Đá Ngây Ngô)
 
Xuân về lâng lâng nào nhờ gió chở
Đáy cốc vênh hay rượu ngấm ngã nghiêng
Thèm trái cấm lòng vướng bận nghiệp duyên
Loan phụng múa tình ai đang khép mở.
 
Mắt xanh trắng tri âm còn níu mộng
Bến xuân ơi lưu luyến cõi trời xưa
Sương khói phủ bâng khuâng xuân không mùa
Thầm nguyện ước cho nguồn yêu mở rộng.
 
Ngọn nến ấy lung linh trời ảo diệu
Hương xưa nào thoang thoảng ủ tình mơ
Để ngây ngất tình tràn thơm men rượu
Hào sảng cười đồng vọng đá ngây ngô.
                                             
 
TÀN NIÊN CẢM TÁC
 
I.
Tơ xuân vương vấn đất trời
Hồn xuân bảng lảng thoảng lời mê hoa
Suốt đời mộng mị là ta
Mắt xanh nhẹ chớp nhạt nhòa tri âm.
 
II.
Chưa say nhưng dáng dật dờ
Hồn mê trí tỉnh mệt phờ xác thân
Chào nhau nửa tiếng ân cần
Khóe môi hé nụ bộn lần nhớ thương.
 
III.
Thôi xin đừng nói tỉnh mê
Thế nhân mắt trắng mệt mề đớn đau
Mơ say quên lấy nỗi sầu
Rộn ràng thế sự dãi dầu lo toan.
Cho ta ít phút thanh nhàn
Câu thơ bất chợt xuất thần thăng hoa.
 
 
VÔ THƯỜNG
(Cảm khái khi đọc truyện thần thoại Hy lạp)
 
Một thời vang bóng còn đâu
Khói sương chừ lại úa màu thời gian
Một thời xuân sắc nhựa tràn
Nhành xanh biếc lộc, hoa vàng thắm cây
Nắng chiều xế bóng hao gầy
Xiêu theo triền dốc ngấm say vị đời
Tiếng lòng ngân vọng chơi vơi
Âm xưa bóng cũ mù khơi dấu tìm
 
                                    
DƯỜNG NHƯ
 
Dường như bóng xế đường trần
Dường như cuộc sống thanh bần rồi qua
Dường như tóc muối sương pha
Dường như phấn bảng đang là vọng âm
Bên chiều một thoáng trầm ngâm...
 
*
THƠ ĐƯỜNG LUẬT
 
 
TÂN NIÊN KHAI BÚT
 
Nâng chén hòa vui ấm giọng ca
Ý tình thao thiết bút thêu hoa
Mai e ấp nụ ươm vàng nắng
Sen khẽ khàng hương ủ đượm trà
Bấc lạnh nỗi niềm đông tận nhỉ!
Rượu nồng sắc vị xuân khai a!
Lâng lâng thi tứ tươm trào giọt
Cánh mộng dần bay vào thẳm xa.
                                 
 
THƯỞNG XUÂN
 
Mai vàng đào thắm toả hương hoa
Tết đến vui xuân nào chỉ ta
Cùng hát cùng đàn, vài cốc rượu
Cũng ngâm cũng vịnh, dăm ly trà
Xôn xao tình gợn hồn đang trẻ
Xao xuyến thơ ngân ý chửa già
Khai bút lòng bừng bao nắng ấm
Bên thềm lãnh lót yến oanh ca.

 
 
Buốt lạnh tàn đông rồi cũng qua
Khoan thai xuân đến ấm bao nhà
Bâng khuâng nắng mới lừng hương tết
Biêng biếc chồi xanh thắm sắc hoa
Danh lợi: chán chê vòng tục lụy!
Rượu thơ: ngây ngất thú yên hà!
Thả hồn bay bổng cùng trăng nước
Hào sảng hát vang khúc túy ca.
 
                                   La Thuỵ

TÔI LÀ CHIM XA RỪNG THƯƠNG CÂY NHỚ CỘI – Trần Vấn Lệ



Nhiều năm trước bảy lăm, tôi là "người Đà Lạt" tôi nghe tiếng của thác / reo:  "Không có Cháy Rừng!".
 
Tôi hỏi từng cây thông:  "Sao rừng mình không cháy?".  Cây thông gió động đậy:  "Không ai muốn điêu tàn!".
 
Sau năm bảy mươi lăm, tôi người "chế độ cũ", qua nhiều trại rừng rú cũng không thấy cháy rừng...
 
Chế độ mới nhắc luôn: "Rừng còn thì đất còn, rừng còn thì nước còn; rừng còn thì đất nước còn.  Rừng mất thì mất đất nước!".  Nghe thật là cảm động!
 
... Tôi ra tù chín năm... rồi tôi thành vong quốc!  Nghe nói rừng khô khốc vì... người ta phá rừng!
 
Rừng không cháy lung tung, chỉ đỏ từng bếp lửa.  Rừng thành nhà thành cửa...Rừng từng ngày tan hoang!
 
*
 
Tôi ở Mỹ:  ngỡ ngàng - rừng cháy như tờ giấy.  Những lâu đài mới thấy... năm phút thôi lửa trùm!
 
Nhiều người mặt có nhăn.  Nhiều người thôi kệ nó!  Những cái xe Cứu Hỏa làm việc rất thản nhiên...
 
Đa số người có duyên "vì có mua bảo hiểm".  Thiểu số người dù hiếm sẽ có Xã Hội lo...
 
Đời sống giống như mơ.  Chỉ giấc mơ không giống!  Việt Nam thì vô vọng,  Mỹ cháy bùng  nguy nga!
 
Tương lai sẽ không xa:  Những lâu đài mới hiện!  Cánh rừng mới sẽ biến thành thắng cảnh phương phi...
 
Tôi, người Việt bỏ đi, nhớ câu Đà Lạt mãi:  "Lửa Cháy Rừng Điêu Tàn", nhớ rừng thông bạt ngàn... không lửa chừ đã rụi!
 
Tôi là chim... xa rừng thương cây nhớ cội...
 
                                                                                        Trần Vấn Lệ

KINH THÀNH HUẾ ĐƯỢC VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN BẢO VỆ THẾ NÀO ?



Kinh thành Huế được khởi công xây dựng vào năm Gia Long thứ tư (30/4/1805). Sử xưa cho biết: Mặt bằng xây dựng kinh thành bao gồm trọn đô thành cũ thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, một phần phủ chính thời Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái cùng đất 8 làm: Phú Xuân, Vạn Xuân, , Diễn Phái, Thế Lại, An Vân, An Hòa, An Mỹ và An Bửu.
 
Cùng với xây dựng một kinh thành rộng lớn, vững chãi, nhà Nguyễn đã tuyển chọn đội quân thiện chiến để bảo vệ vương triều trong một thời đại bị nhòm ngó, xâm lược.
 

Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2025

TỪ NAY MÌNH SẼ GẶP TRONG MƠ – Trần Vấn Lệ

 

Đã tám giờ hơn, còn tối quá, Đèn đường đã tắt.  Phố mù sương.  Không ai đi cả.  Đời hiu quạnh.  Không tiếng chim kêu, vẫn não nùng... (*)
 
Nhớ lại anh Nùng trong Cải Tạo, giáo sư Sư Phạm hay cười cười... Anh không than thở điều chi cả... mà mắt anh buồn, không thấy vui...
 
Anh ra tù tôi cũng ra tù... Ga Tuy Hòa cùng ngắm cái Thiên Thu:  "Lệ ơi, về sống hay về chết?".  Tôi ngó anh nhìn anh rất lâu...
 
Chưa xe lửa tới.  Hai thằng gậm, mỗi đứa bánh mì một tấc gang. Không nước mắm chan sao quá ngọt.  Sáu năm...Ngon quá:  Bánh Mì Ngon!
 
Rồi xe lửa tới.  Còi hu hú.  Rồi hú hơi dài, nó đứng yên. Khách xuống, người lên, xe chạy tiếp.  Tôi về Phan Thiết, anh Phan Rang...
 
Chào biệt bé con ly đá lạnh.  Chào Tuy Hòa.  Chào A 30!  Hai thằng một chỗ nhìn ra cửa: nhà cửa ruộng đồng...tất cả trôi! 
 
Đời ngược, mình xuôi, xuôi vạn lý.  Tôi ngó anh, buồn; tôi cũng như?  Anh gặp vợ con, tôi gặp Má... Từ nay mình sẽ gặp trong mơ?
 
*
Đoàn xe lửa tới Phan Rang rồi.  Anh xuống, tôi chờ xe lửa xuôi...Tay vẫy.  Chào nha!  Xe lửa hú.  Mình xa mình xa đời xa xa...
 
Anh sang Texas rồi anh mất.  Tôi tới Cali tôi sống còn. Anh của anh mất ngoài Hà Nội.  Em của tôi mất ngoài Đại Dương...
 
Sáng nay, trời tối, thơ tôi lóe... Đặng Vũ Nùng ơi...mình thật xa!  Nửa Thế Kỷ mà như chớp mắt.  Mặt trời?  Không phải!  Lệ người sa!
 
Tôi khép cửa cho trời tối mịt.  Tôi khép lòng tôi bài thơ này. 
 
                                                                                           Trần Vấn Lệ
 
(*) Đặng Vũ Nùng, dạy trường Sư Phạm Đà Lạt niên khóa cuối, 1974-1975.  Anh cũng như tôi, giáo chức biệt phái... Anh ruột của anh là Đại Tá Đặng Vũ Ruyến, Giám Đốc Nha Địa Dư, ra Bắc, chết trong năm 1975, tại một trại tù ngay trong lòng Hà Nội.  Tôi nhớ anh, tôi hay đùa anh..."Anh là Đặng Não Nùng!".  Anh và gia đình sang Mỹ năm 1992.  Tôi trước anh, 1989. Chúng tôi ra tù Cải Tạo năm 1981, từ trại cuối cùng A 30 Phú Yên, anh về Đà Lat ngay để đoàn tụ với gia đình, tôi thì về Phan Thiết thăm Má tôi lần chót trong đời...                 

BÁT NẤU MĂNG NGÀY TẾT CỦA BÀ TÔI - Vĩnh Quyên



- Này mẹ nó đã ngâm măng chưa đấy ! - Bà tôi gióng giả hỏi vọng từ trên gác xuống.
- Rồi ạ ! Hôm qua Bà dặn là con ngâm luôn - Mẹ tôi vội trả lời.
 - Nhưng chị có nhớ ngâm chỗ măng lưỡi lợn tôi đặt riêng không, khéo lấy nhầm sang bó măng nứa thì hỏng cả mâm cỗ đấy !
 - Năm nào nhà mình chả nấu măng lưỡi lợn ăn Tết, con không nhầm đâu ạ !
 

Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2025

NGUỒN GỐC CỦA 12 CON GIÁP – Nguyễn Cung Thông

Đã bao giờ bạn tự hỏi vì sao lại có 12 con giáp chưa? Nếu chưa thì mời bạn cùng xem bài viết dưới đây để biết được nguồn gốc cũng như cách tín can chi liên quan đến 12 con giáp này nhé.

12 con giáp Việt trong cung Hoàng Đạo
 

NGUỒN GỐC CỦA 12 CON GIÁP
 
Xưa nay nhiều người vẫn lầm tưởng rằng 12 con giáp có xuất xứ từ Trung Hoa. Tuy nhiên, mới đây, trong một công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Việt cổ - nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Nguyễn Cung Thông phát hiện ra nguồn gốc 12 con giáp có xuất xứ từ Việt Nam.
 
Ngôn ngữ là “lá bùa” tổ tiên để lại
 
Theo văn hóa Phương Đông, lịch được xác lập theo chu kỳ thay đổi đều đặn của Mặt trăng. Do đó 12 con giáp ứng với 12 giờ trong ngày, 12 tháng trong năm, 12 năm trong một giáp – đó là những nền tảng quan trọng để tính lịch và là dấu hiệu để nhận đoán về số mệnh của từng người theo cung Hoàng Đạo.
 

CÀNH MAI THA HƯƠNG – Thơ Khê Kinh Kha


 


một mùa Xuân nữa
lại về đâu đây
lòng sao hiu quạnh
lạnh theo tuyết bay
 
bao năm rồi nhỉ
bao mùa Xuân qua
đắng cay như rượu
ai còn nhớ ta
 
quê nhà xa ta
hay ta xa nhà
bao năm lạc bước
bao niềm xót xa
 
mẹ già đâu nữa
bạn hiền còn ai
nụ mai nào nở
rượu nào cuồng say
 
có tiếng pháo nào
trong ai không nhỉ
có giọt rượu nào
say lòng người đi
 
có giọt lệ nào
ướt bờ môi thơm
có an ủi nào
thoa dịu đau thương
 
còn đây năm tháng
qua nhanh, qua nhanh
như dòng sông cuốn
mang nỗi sầu riêng
 
tạ ơn tạ ơn
còn đây vợ hiền
tựa vai cùng bước
giữa đời buồn tênh
 
Xuân đi Xuân đến
phận người bơ vơ
cuối đời ngồi nhớ
khoảng trời xa xưa
 
một mai xuân nữa
có còn ta không
xin cắm trên mộ
cành mai tha hương
 
Khê Kinh kha
(Virginia, Jan 22, 2022)

NHỚ CỔ THÀNH QUẢNG TRỊ VÀ PHƯỜNG ĐỆ TỨ NĂM XƯA – Đinh Hoa Lư


Bản đồ của Pháp Thành Quảng Trị năm 1883 tỷ lệ xích 1/4000 có ghi chú từng nơi đánh dấu Alphabet chữ in hoa (nguồn: Võ Hương An. Tự Điển Nhà Nguyễn)
 
Vài lời thưa trước với bạn đọc
 
CỔ THÀNH HAY THÀNH CỔ
 
Trước 1975 danh từ CỔ THÀNH từng được gọi cho tên Thành Quảng Trị một kiến trúc có từ thời Nhà Nguyễn.
 
Theo cuốn Từ Điển Nhà Nguyễn của nhà Biên Khảo Võ Hương An
 
Thành Quảng Trị (Cổ Thành) đầu đời Gia Long thành là lỵ sở dinh Quảng Trị, đặt tại Phường Tiền Kiên Huyện Thuận Xương. Qua năm Gia Long thứ 8 (1809) mới dời về xã Thạch Hãn, huyện Hải Lăng. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823) chỉ mới đắp bằng đất, qua năm Minh Mạng thứ 18 (1837) mới xây gạch. Thành Quảng Trị có chu vi 481 trượng  6 thước (1926.40 mét), cao 1 trượng (4m), dày 3 trượng (12m), có 4 cửa, chung quanh có hào rộng 4 trượng 6 thước (18.40m), sâu 8 thước (2.40m). Thành này hoàn toàn bị phá trong chiến trận năm 1972. (trích)
 
Ngoài ra chúng ta nên phân biệt Cổ Thành với Làng Cổ Thành (hình dưới).
 
Trước 1972 người thành phố QT gọi tắt Cổ Thành là "THÀNH". Nói "Thành" nhưng ai cũng hiểu đó là Cổ Thành QT
 
Vd:
- Khi hôm có pháo kích trong Thành
- Ba hắn làm lính trong Thành
- Đi vô Cửa Hữu, Cổng Thành Đinh Công Tráng

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2025

XUÂN BẤT TẬN – Thơ Tịnh Bình


   

 
XUÂN BẤT TẬN
 
Gõ cửa hỏi mùa xuân năm trước
Đã đi đâu và trở về đâu
Rắc phấn đưa hương chi cánh bướm
Tìm xuân mất dấu tự khi nào
 
Trùng trùng sương khói đâu thấy lối
Mịt mờ nhân ảnh cõi chiêm bao
Mưa cùng nắng say cơn phù phiếm
Hải triều âm vọng tiếng lao xao
 
Gõ cửa tầm xuân đành chẳng gặp
Đường trần gót mộng dấu hài xưa
Chợt thấy vô vàn gương mặt cũ
Bỗng hóa thanh tân một nét cười
 
Chẳng đợi hoàng mai bừng sắc thắm
Đâu phải én về mới hay xuân
Gió phơi phới đất trời vô tận
Không sinh chẳng diệt mãi thường hằng...
 
                                                Tịnh Bình

*
Họ tên: Nguyễn Thị Bình (Tịnh Bình)
Địa chỉ: 20AB Khu Phố 1, Thị Trấn Gò Dầu, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh

BÂY GIỜ, NỢ NẦN, CON NGƯỜI, CẢM THƯƠNG, CON SÁO, MÙA XUÂN, ĐÁNG CHÁN ĐÁNG VUI, KHÔNG KHÔNG, HAI NƠI, TAN HỢP – Thơ Chu Vương Miện

 
   
 
 
MÙA XUÂN
 
hoa nở vào mùa xuân
cũng tàn luôn vào mùa xuân ?
lá xanh vào mùa xuân
lá vàng đỏ vào mùa thu
rụng vào mùa đông ?
năm này năm khác
trái đất quay một vòng
ngày nào thì cũng vậy
hết mặt trời mặt trăng
hết sáng thì lại tối
hết khuyết lại tròn
vẫn là vàm sông
cây đa bến cộ
nước lưng lưng giòng ?
 

TỨ LINH 四靈 - Tranh dân gian Việt Nam, Hán Việt Thông Dụng

Chuyên mục nhằm thuyết minh các kí tự Hán và Nôm trên các tác phẩm tranh dân gian Việt Nam, giúp người Việt Nam hiện đại cảm thụ rõ hơn nội dung các bức tranh này. Tranh dân gian là các di sản Hán - Nôm có giá trị, có sức sống bền bỉ và độ tiếp cận rộng rãi trong dân chúng.


Ta phân tích một bức tranh Đông Hồ vẽ đề tài "Tứ Linh" 四靈.
 
TỨ LINH

Theo thói quen, người Việt gọi 4 loài trong Tứ Linh là "long" - "lân" - "quy" / - "phụng / phượng" /
Tuy nhiên, bức tranh Đông Hồ này dùng một cách khác mà người Việt gọi lân trong Tứ Linh là "li" . "Long lân quy phụng" còn nói là "long li quy phụng".
Còn chữ "quy" trong tranh này được viết thêm bộ "trùng" xuất hiện trong tên nhiều loài động vật trong Hán ngữ (như các loài bò sát, sâu bọ, tôm cua).
                                                                                             Ung Chu