CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 28 tháng 6, 2021

BÀN VỀ BA BÀI BÌNH THƠ “NGHIÊNG” CỦA LA THỤY - Châu Thạch


            
                  Nhà bình thơ Châu Thạch


   BÀN VỀ BA BÀI BÌNH THƠ “NGHIÊNG” CỦA LA THỤY
                                                                                      Châu Thạch
                              
NGHIÊNG

Ai từng chao nghiêng
Chắt lắng hết hương mê
Chừ hoài niệm
Len lỏi ngoằn ngoèo trong ký ức
Tình xưa hẹn ước
Chông chênh rơi mất ánh trăng thề?

                                       La Thụy

Đọc được bài thơ “Nghiêng” rất hay của nhà thơ La Thụy, Châu Thạch tôi nổi máu văn chương cũng muốn viết đôi dòng cảm nhận của mình. Thế nhưng thấy trên diễn đàn đã có nhiều bài bình luận về nó, mình có viết nữa cũng bằng thừa. Thôi thì chơi trội một chút, bình các bài bình viết về bài thơ ấy. Nói chữ “bình” cho oai thế thôi, chứ thật ra con dế hèn mọn nầy chỉ xin có đôi lời bày tỏ cảm giác của mình khi đọc các bài bình mà thôi, mục đích cũng là gáy bá vơ, góp một chút âm thanh trong hương thơm của hương đồng cỏ nội dưới ánh trăng nghiêng của nhà thơ La Thụy.

Trước hết, xin trích một vài câu mà nhà thơ Trần Mai Ngân đã cảm nghĩ về bài thơ “Nghiêng” của La Thuy.

“Ở trên tầng cao tôi đọc bài thơ NGHIÊNG của nhà thơ LA THUỴ.
Qua khung cửa sổ trước mặt tôi là con trăng trắng toát và rất tròn đầy”
 “Tôi nhìn ánh trăng đăm đắm và cảm thấy “chông chênh rơi mất ánh trăng thề” xa xưa...”
“Bài thơ NGHIÊNG của nhà thơ LA THUỴ chỉ với ba mươi chữ trong một tứ mà đã làm tôi thao thức đêm nay !
Đêm NGHIÊNG cùng tôi và ánh trăng buồn tháng Chạp !”

Bài thơ “Nghiêng” của La Thụy đã làm cho một người tỉnh táo  trước ánh trăng tròn đầy như Trần Mai Ngân cũng thấy“đêm nghiêng theo cùng tôi”.
Dưới cái đầu đề “Bài thơ “Nghiêng” của La Thụy cùng tôi dưới ánh trăng tháng chạp” nhà thơ Trần Mai Ngân đã cảm tác nên một bài thơ không vần khác. Bài thơ không vần nhưng mượt mà như vầng trăng nghiêng trút ánh sáng xuống trần gian, để người đọc cảm nhận  trọn vẹn ánh trăng trong thơ La Thuy. Trần Mai Ngân đang đứng trước ánh trăng trắng toát và tràn đầy, thế nhưng bài thơ  Nghiêng đã gieo vào hồn chị kỷ niệm của “ánh trăng thề” một thời trong quá khứ. Vậy thì trăng hiện tại tròn và đẹp, trăng thề trong quá khứ cũng rất tròn và đẹp. Sự “chông chênh rơi mất ánh trăng thề”   “Đêm NGHIÊNG cùng tôi và ánh trăng buồn tháng chạp” chỉ là sự cảm nhận trong tâm hồn của chị.
Chỉ một vài câu bình thơ ngắn, Nhà thơ Trần Mai Ngân đã diễn đạt đến thăng hoa cái nghiêng của trăng quá khứ mà La Thụy đã thổ lộ trong thơ.

Bây giờ xin mời đến với “Đọc bài thơ “Nghiêng” của La Thuỵ” do nhà thơ Phạm Đức Nhì phóng bút.
Trước hết tôi xin trích một vài câu trong bài bình luận nầy:
“Với tôi, La Thụy làm thơ đều tay và chắc tay.”
“Đặc biệt đến bài Nghiêng thì anh lại nổi hứng bứt phá hết những sợi dây trói buộc của thơ truyền thống và Thơ Mới.”
“Có thể nói Nghiêng của La Thụy là bài thơ phá hết mọi lề luật - chỉ giữ lại chút vần. Vần không chỉ thoang thoảng rất vừa độ ngọt mà vị ngọt cũng khác lạ. Không phải cái ngọt bình thường của đường mía hay đường thốt nốt mà hình như là vị ngọt của mật ong nguyên chất từ chốn rừng sâu núi thẳm.”

“Một đặc điểm nữa của Nghiêng là sự cô đọng. Bài thơ chỉ có 30 chữ, nhưng để “tóm tắt” đại ý của tứ thơ tôi đã phải “gói gọn” trong 45 chữ. Sức nén của ngôn ngữ thơ trong Nghiêng thật đáng nể.
Cảm xúc từ tầng 1 (câu chữ) và tầng 2 (thế trận) - đặc biệt là tầng 2 - khá mạnh. Độc giả thật sảng khoái khi bài thơ – lúc ấy cũng là bản nhạc – đi đến giai kết hoàn toàn (cadence parfaite). Chữ “thề”, có âm vang của chữ “mê” trợ lực, trở về chủ âm hết sức ngọt ngào. Vì bài thơ quá ngắn, có cảm xúc ở tầng 3 nhưng rất nhẹ.”

“Tóm lại, Nghiêng là bài thơ ngắn, ngắn nhưng hoàn chỉnh. Thi ảnh đẹp, thi pháp mới lạ”.

Sau đây tôi xin chép lại comment  của hai cây bút có uy tín, ít thấy khen ai trên diễn  đàn facebook đã viết dưới bài bình thơ  trên:

 Trùng Dương: “Hay, bình thơ rất nhẹ, giống như những lời tâm sự của anh gởi cho La Thụy trút nỗi niềm tâm đắc ý nội, tâm ngoại. Lâu lâu đọc một đoản bút thật xúc động lâng lâng như một khúc nhạc mà chưa viết ra được thành âm giai. Trân trọng”

Lê Liên: “Thật tuyệt từ bài thơ tới bài bình. Cảm ơn nhà thơ và nhà bình thơ vì đã chia sẻ cảm xúc cho bạn thơ.
Chúc hai anh thật nhiều sức khỏe và sáng tác thật nhiều ạ.”

Nếu ta trực tiếp đọc toàn bộ bài bình thơ của nhà phê bình văn học Phạm Đức Nhì, ta sẽ thấy ở đó lần lượt nhưng nhận xét xác thực, bằng lời văn có tiếng thơ nhiều âm giai như nhạc sĩ Trùng Dương  đã viết. Nếu nói Trần Mai Ngân viết cảm xúc trong  nội tâm mình khi đọc bài thơ “Nghiêng” thì Phạm Đức Nhì viết suy nghiệm trong nội tâm mình về bài thơ ấy . Suy nghiệm ấy được trình bày bằng thuật ngữ và dưới bút pháp  thi ca. Đọc bài thơ của La Thụy rồi đọc bài bình thơ của Phạm Đức Nhì, ta không phải mở lòng  mà ta còn mở trí để hiểu sâu xa thi pháp trong bài thơ mà tác giả đã xử dụng tài tình.

Bây giờ, xin mời bước qua bài bình thơ thứ ba, bài “Cảm nhận về bài thơ “Nghiêng” của La Thụy. Bài viết của Nguyên Lạc.

Ở bài nầy Châu Thạch xin trình bày từng phần để dễ hiểu hơn.

1-  Nguyên Lạc viết: “Theo quan niệm riêng tôi về thơ văn, trong con người có hai cái tôi: Cái tôi lý trí và cái tôi cảm xúc”

Từ xưa đến nay sách vở thường cho biết cái tôi chính là cái cá tính, cái bản chất vốn có của mỗi người. Có người xem cái tôi của mình quá lớn, có người lại tự ti về cái tôi của mình. Người thì có cái tôi nghiêng vê lý trí, người lại có cái tôi nghiêng về tình cảm. Người bình thường thì phải giữ cái tôi sao cho hài hòa, không nghiêng bên nào quá. Khi cảm xúc lấn áp lý trí hay khi lý trí lấn áp cảm xúc trong một con người thì không phải là hai cái tôi trong con người đối nghịch lấn áp nhau mà là cái tôi của chính người đó diễn biến theo chiều tích cực hay tiêu cực mà thôi. Vậy cho nên trong con người không có hai cái tôi bao giờ.

2-  Nguyên Lạc viết 
“Chỉ có "xỉn" rượu và do đó "xỉn tình đời" mới nghiêng ngả , chông chênh. Và do đó TRĂNG nghiêng theo, đổ sầu vào lòng tác giả. Phải không?
Đây là "cơn hứng" (phút xuất thần) của tác giả khi "xỉn rượu" đầy tâm tư, nhớ TÌNH, ĐỜI. Rượu giải phá "thành sầu" nhưng được không? Hay là càng sầu thêm.”

 Bài thơ “Nghiêng” là bài thơ viết về sự hồi ức một quá khứ lâu dài mà tác giả vì một lý do gì đó đã để trôi đi những hương vị ngọt nào của một cuộc tình. Bài thơ “Nghiêng” không viết về tác giả nổi “cơn hứng”, “xỉn rượu” làm cho “nghiêng ngã”, “chông chênh” như nhà bình thơ đã nói ở trên. Cái chữ “Ai từng” cho ta thấy là tác giả nhớ về quá khứ chứ không phải hiện tại. Câu thơ “Chắt lắng hết hương mê” cho ta thấy một hành động chậm chạp, chắt cho lắng hết chớ không phải là đổ ào đi. Vậy thì ý nghĩa của câu thơ là tác giả đã tự tay mình chao nghiêng “bình tình yêu” và chắt đi cái hương vị mê ly cho bằng hết. Câu thơ đó chứng tỏ tác giả đang ân hận về những gì mình trong quá khứ đã làm cho cuộc tình phải cạn yêu đương.
Có thể thi nhân viết bài thơ trong khi say nhưng chủ đề của bài mà thi nhân muốn nói là hồi ức và ân hận. Người bình thơ phải đồng cảm với diễn biến xảy ra trong chiều sâu tâm hồn tác giả chứ không phải làm lạc chủ đề của bài thơ, đưa chủ đề của bài thơ qua một lãnh vực khác không ăn nhập gì cả. Người bình có thể đề cập đến cái say của tác giả nhưng phải đặt ở phần phụ, phần nói thêm để diễn đạt sâu thêm về bài thơ mà thôi. Ở đây nhà bình thơ viết về cái say, cái xỉn mà hoàn toàn bỏ qua chủ đề chính của bài thơ là tưởng nhớ và ân hận. Hơn nữa bài bình thơ khi khen chỉ khen chung chung, không biết cái hay của bài thơ ở chỗ nào, ở câu thơ nào, ở ý nào hay ở tứ thơ nào cả.

3-  Nguyên Lạc viết:
“Một bài thơ hay phải có ba yếu tố:vần, nhạc và họa”, “ Thơ không có vần, nhạc, họa cũng giống như bộ xương thịt đã mát hết. Ai có thể ôm ấp, làm tình với bộ xương”
 “Tuy nhiên về vần, theo chủ quan, cách ngắt dòng của La Thụy chưa hoàn toàn đạt”
“Theo tôi câu 4 ngắt dòng như thế này thì tuyệt, ̣xin ghi lại bài thơ
1. Ai từng chao nghiêng
2. Chắt lắng hết hương mê
3. Chừ hoài niệm
3. Len lỏi ngoằn ngoèo
4. Trong ký ức
5. Tình xưa hẹn ước
6. Chông chênh rơi mất ánh trăng thề?”

Đọc Phạm Đức Nhì ở trên ta thấy ông đã công nhận “Nghiêng” là một bài thơ trọn vẹn gây cảm xúc từ tầng 1 (câu chữ) cho đến tầng 2 “thế trận”, nghĩa là ngoài những cái hay khác thì bài thơ được gieo vận hợp lý mà tài hoa. Thế nhưng Nguyên Lạc nói ngược lại hết.
Nhà bình thơ Nguyên Lạc nói “một bài thơ hay phải có ba yếu tố: vần, nhạc và họa” “Thơ không có vần, nhạc, họa cũng giống như bộ xương thịt đã mát hết. Ai có thể ôm ấp, làm tình với bộ xương”
Thế rồi nhà bình thơ lại nói: “Tuy nhiên về vần, theo chủ quan, cách ngắt dòng của La Thụy chưa hoàn toàn đạt”
Vậy là nhà bình thơ Nguyên Lạc gián tiếp nói thơ La Thụy như bộ xương thịt đã mất. Nếu không mất hết thì bài thơ cũng giống như một thân thể cháy sém lòi xương ra rồi.
Thế rồi nhà bình thơ Nguyên Lạc còn làm thầy dạy tác giả La Thụy chỉnh sửa thơ nữa chứ:
“Theo tôi câu 4 ngắt dòng như thế này thì tuyệt, ̣xin ghi lại bài thơ
1. Ai từng chao nghiêng
2. Chắt lắng hết hương mê
3. Chừ hoài niệm
3. Len lỏi ngoằn ngoèo
4. Trong ký ức
5. Tình xưa hẹn ước
6. Chông chênh rơi mất ánh trăng thề?”

Nhà thơ La Thụy, một cây bút được nhiều thi hữu ái mộ, chưa là bậc đàn anh, thì cũng có tầm cỡ  trên văn đàn. Thế nhưng Nguyên Lạc đã bày cho ông ấy làm thơ. Đó là một thái độ trịch thượng. Thế nhưng nhà phê bình thơ cũng bày sai trật quá đổi, chưa nói là ấu trỉ vô cùng:
Bài thơ “Nghiêng” là một bài thơ tự do, chữ và vần không bó buộc khắt khe lắm. Tuy thế dầu là thơ tự do cũng phải có lúc trầm lúc bổng, lúc dồn dập lúc du dương.
Xin hãy đọc bài thơ nghiêng của La Thụy:

NGHIÊNG
Ai từng chao nghiêng
Chắt lắng hết hương mê
Chừ hoài niệm
Len lỏi ngoằn ngoèo trong ký ức
Tình xưa hẹn ước
Chông chênh rơi mất ánh trăng thề?

Người biết ngâm thơ hay không biết ngâm thơ, cứ thử ngâm to bài thơ nầy lên. Ta sẽ sẽ thấy câu thơ “Len lỏi ngoằn ngoèo trong ký ức” làm cho âm điệu bài thơ ở chỗ nầy ngân lên. Âm vọng của nó sẽ truyền tải đến ta sự thiết tha trong lòng tác giả.
Nay người bình biểu cắt câu thơ “len lỏi ngoằn ngoèo trong ký ức” thành hai câu “Len lỏi ngoằn ngoèo/ Trong ký ức” lập tức làm cho cả bài thơ thành một bài vè hoặc một bài lô tô vậy.
Người bình cho rằng câu thơ nầy không ăn vận với câu trên nhưng thật ra nó ăn câu trên ở yêu vận.

Tóm lại bài bình của Nguyên Lạc không nói được gì cho bài thơ cả ngoài việc cho người đọc thấy tác giả say và xỉn và chếnh choáng mà thôi. Đem câu “Dục phá thành sầu tu dụng tửu” vào đây để biện luận cho lời bình chỉ là phá thêm cho bài thơ hay mất đi nhiều ý nghĩa thâm thúy, vô biên và quyến luyến .
Châu Thạch xin cảm ơn quý vị đã đọc bài viết thật dài.

                                                                                       Châu Thạch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét