CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2025

SÁCH QUÝ NHẬN ĐƯỢC TRONG THÁNG 11.2025 – Ngô Hương Thủy

Nhà văn Ngô Hương Thủy viết về tập sách CHỮ NGHĨA VĂN CHƯƠNG của La Thụy.


* Đất khổ thường nẩy sinh người tài. Tiếp nối những Nguyễn Hữu Liêm, Lê Trạch Cam, Nguyễn Đức Tùng… Hôm nay chúng ta có thêm La Thụy, bút danh của Đoàn Minh Phú.
 
Từ quê nghèo Quảng Trị, sau Mùa hè đỏ lửa, cậu bé đi theo đoàn lưu dân vào Nam tìm đất sống. Ở vùng kinh tế mới La gi - Bình Thuận, vượt qua bao gian khổ, La Thụy đã vươn lên, trưởng thành với nghiệp nhà giáo - nhà văn - nhà nghiên cứu.
 

ĐỌC “THÁNG MƯỜI MỘT” THƠ HÙNG BÀNG LONG - Châu Thạch



Hôm nay là là 9/10 năm Ất Tỵ (2025), như vậy có thể xem như thời khắc chuyển mùa thu sang mùa đông đối với âm lịch
Đọc bài thơ “Tháng Mười Một” của Hùng Bàng Long ta thấy có một cảm xúc giao mùa thú vị. những hình ảnh trong thơ không có lá vàng rơi hay con nai vàng ngơ ngác. Nhưng cũng không quá băng giá của mùa đông, mà hiển hiện một thời khắc giao thoa se sắt cả không gian thời gian và lòng người. Bài thơ khiến lòng tôi cảm động và khiến tôi phải viết để thổ lộ những rung cảm cúả tâm hồn tôi.

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

LÂM SÀNG – Thơ Lê Kim Thượng


   


Lâm Sàng  
 
1.
Dòng sông con nước đầy vơi
Quê hương là một góc trời tươi xanh
Làng quê bình dị, an lành
Mà trong nỗi nhớ đã thành thân thương
Quê hương một nắng, hai sương
Nhớ người xa xứ, tha phương chưa vừa
Quê hương mưa nắng hai mùa
Đầy vơi con nước, bóng dừa tươi xanh
Nhà quê vách đất, mái tranh
Giàn bầu, giàn mướp, cây chanh, cây cà
Người quê tình nghĩa bao la
Hiền hòa, mộc mạc, đậm đà, sắt son
Chiều buồn ngồi ngắm hoàng hôn
Mà lòng sao cứ bồn chồn, xuyến xao
Mùi hương lúa chín ngọt ngào
Màu lam khói bếp quyện vào câu thơ…
 

LŨ – Thơ Lê Phước Sinh


   

Lũ Dồn Lũ Dồn tự Lũ Dồn...
Báo cáo lên trên Trời Lú nặng
Người Già chết cóng vì Vọt bẻ
Trăm ngôi nhà lút do... Đất sụt
Thủy Điện băng huyết đến Kỳ kinh...
 
"Lũ" chuyện "chút xíu" mà la lớn !!?
 
                                 Lê Phước Sinh

ĐÔNG SANG, MÙA ĐI – Thơ Tịnh Bình


   

 

ĐÔNG SANG...
 
Thu đi đâu rồi đấy ?
Bâng khuâng nhành heo may
Mùa đông chưa kịp đến
Sót vài tia nắng gầy
 
Gót thu như bịn rịn
Dạo quanh trên lá vàng
Quả thơm mùi thơ ấu
Hương nhãn chín dịu dàng
 
Gió vườn trưa trốn ngủ
Chim ngơ ngác gọi đàn
Ánh mắt ai sau lá
Tiễn nắng về mênh mang
 
Thu đi đâu mà vội
Bẽn lẽn khăn gió quàng
Sớm mai sương chợt thức
Chuốt từng sợi đông sang...
 

NHÂN NGÀY ĐẠI TƯỜNG NHÀ THƠ TUỆ SỸ (24/11/2925) ĐỌC ‘TỐNG BIỆT HÀNH” THƠ TUỆ SỸ - Châu Thạch




TỐNG BIỆT HÀNH
 
Một bước đường thôi nhưng núi cao
Trời ơi mây trắng đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn hết ân tình, nước lạnh sao?
 
Một bước đường xa, xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi
 
Cho hết đêm hè trông bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa
 
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa máu dạt lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu úa
Trên phím dương cầm, hay máu xanh
                                            Nh.Tr. 77
 
NHÂN NGÀY ĐẠI TƯỜNG NHÀ THƠ TUỆ SỸ (24/11/2925) ĐỌC ‘TỐNG BIỆT HÀNH” THƠ TUỆ SỸ
                                                                      Châu Thạch
 
“Hành” là một thể loại thơ không phổ thông lắm, nhưng nó từng giữ một vị trí đáng kể trong lịch sử thi ca Việt Nam. Một bài thơ ở thể “Hành” thường đề cập đến những sự việc với tâm trạng bức xúc. Nếu so sánh “Hành” với những thể thơ khác ở giai đoạn thơ mới (Thập niên 1930 đến nay) thì thể “Hành” không được sáng tác nhiều. Tuy thế dầu ít, “Hành” cũng có được ngôi vị trân trọng trong nền văn học giai đoạn nầy. Cụ thể là “Tống Biệt hành” của Thâm Tâm, “Hành Phương Nam” của Nguyễn Bính và một số bài thơ thể “Hành” ít nổi tiếng hơn.
 

Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2025

WUMAO 伍毛, DƯ LUẬN VIÊN CỦA TÀU - Nguyễn Văn Tuấn

 Wumao伍毛 là tiếng lóng để chỉ những “Mạ thủ”罵手
 Mạ : Mắng chửi như trong mạ lị, nhục mạ, lăng mạ
 Thủ : Tay, tay nghề như trong cao thủ, danh thủ
*
Tàu ngày xưa là nơi sản sanh ra những mạ thủ, thì Tàu ngày nay cũng có những đội quân mạ thủ, thuật ngữ tiếng Hoa hiện đại là Wumao伍毛,có âm Hán Việt là “ngũ mao” dùng để chỉ “dư luận viên:
 ngũ: đội ngũ
 mao (danh): lông; (động): nổi giận, phát cáu...

Như thế, Wumao 伍毛  hay “ngũ mao” là đội ngũ của nhửng kẻ chuyên nhục mạ đối phương để kích động làm cho đối phương nổi giận, phát cáu


Tôi mới học được một danh từ mới: mạ thủ. Một cách ngắn gọn, mạ thủ là một kẻ chuyên nghề chửi. (Giống như dư luận viên ngày nay). Lịch sử ra đời của mạ thủ vẫn còn mang tính thời sự ngày nay.

Theo tác giả Huy Phương (báo Người Việt), danh từ này xuất phát từ thời Hán Sở tranh hùng và Tam Quốc Chí bên Tàu. Thời đó, nhà cầm quyền huy động những người có lá phổi lớn, tiếng nói vang, và có cách chửi độc địa để làm ‘mạ thủ’. Mạ thủ chỉ có mộ việc đơn giản là chửi bới đối phương. Họ trong tư thế trần truồng, xông lên phía trước, sát cổng thành của đối phương, và tung ra những lời chửi bới tục tĩu và dơ bẩn nhứt nhắm vào đối phương. Mục đích là hạ nhục và khiêu khích đối phương bằng cách thoá mạ ông bà tổ tiên của đối phương, sao cho họ mở cửa thành để lính xông vào. Điều trớ trêu là mạ thủ là những người bị chết đầu tiên vì họ không có vũ khí khi xông trận. Họ có thể xem như là những con chốt thí cho bọn cầm quyền.

ĐẠI HỒNG THỦY 大洪水 – Ung Chu



- đại : to, lớn
- hồng : lũ, lụt (nước lớn gây ngập), chuyển nghĩa thành tính từ nghĩa là to lớn, dùng thông với chữ "hồng" 
- thuỷ : nước.

Lụt cũng được gọi là "hồng thuỷ" 洪水 / 鴻水 nghĩa đen là nước lớn. "Đại hồng thuỷ" 大洪水 nghĩa là lũ lụt lớn. Tiếng Nhật đọc là "dai-kō-zui" だいこうずい, tiếng Hàn đọc là "dae-hong-su" 대홍수.

Nhiều cộng đồng trên thế giới cùng có truyền thuyết về đại hồng thuỷ, kể về trận lụt cực lớn trong quá khứ xa xôi nhấn chìm khắp nơi. Dạng thảm hoạ trong truyền thuyết này của các cộng đồng lớn trên thế giới (vùng Lưỡng Hà, vùng Ấn Độ, vùng Trung Hoa, vùng Do Thái...) thường gắn với những đấng siêu nhiên.
                                                                                             Ung Chu

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2025

CHÙM THƠ NGẮN CỦA TỊNH BÌNH




1.
Cười tươi trước gió sen thanh
Hoa rơi cánh rụng lại thành đài gương
Bao phen dầu dãi mưa sương
Búp tơ e ấp khẽ vươn mặt hồ...
 
2.
Lá đâu tranh sắc cùng hoa
Âm thầm diệp lục hoan ca mặt trời
Dịu dàng che giọt nắng rơi
Điểm tô hoa mãi rạng ngời đẹp xinh...
 
3.
Một thời hoa bướm đã trôi xa
Ngây thơ mắt ngọc giọt sương ngà
Hồn nhiên cứ ngỡ trần là thật
Bất giác tỉnh rồi giấc mơ hoa...
 
4.
Này đây ngọn cỏ cành sương
Nhắc ta quán niệm vô thường phút giây
Dòng đời tan hợp bèo mây
Dụi con mắt thức giữa ngày chiêm bao...
 
                                         TỊNH BÌNH

LỤT NĂM NAY, HUẾ LỤT BỐN LẦN – Thơ Lê Phước Sinh

 
 

Xắn lên trên đầu gối,
con chim ngủ yên nghe
lông lá dù thấm nước
đừng trách chi ông trời.
 
Bờ kia tre nửa cụm
mái phên rã theo giòng
người than ơi ới ới...
như hát bội giữa đồi.
 
Lụt lên nhồi Lụt xuống
nước bạc tố dân tôi ...
 
LÊ PHƯỚC SINH

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2025

NỬA KIA – Thơ Lê Kim Thượng


   

1.
Nhớ ngày thưở ấy… “Ngày xưa…”
Chung trường, chung lớp… tuổi vừa biết yêu
Thương ngày nắng sớm, mưa chiều
Ngày thơ, ngày mộng, dáng Kiều lung linh
Trao nhau những nụ hôn tình
Nắng soi mặt nước in hình đôi ta
Tình yêu chắp cánh bay xa
Vòng tay ôm ấp, ngày qua, ngày ngày
Người yêu như thể người say
Men tình chuếnh choáng, ngất ngây miệt mài
Yêu người mới biết nhớ hoài
Yêu người mới biết ngày dài quạnh hiu
Trong vòng tay ấm hương yêu
Lời tình thủ thỉ, cho nhiều thiết tha
Hoàng hôn tắt nắng đường xa
Bước về không nỡ… ơi ta… ơi mình…

TIẾNG QUÊ VỌNG GỌI – Thơ Tịnh Bình


   

Biết tìm đâu vệt mây chiều cố xứ
Mắt hoàng hôn ầng ậng nước nhớ nhà
Ta xa lạ giữa bốn bề vội vã
Chợt thèm quê
Cỏ dại
Một lối về...
 
Nghe sông gọi lời phù sa ngọt lịm
Nước về đâu trăm sóng nhỏ lạc dòng
Đớp bóng mình cá lầm mê nguồn cội
Vỡ bóng rằm trăng òa khóc mặt sông
 
Thương bóng núi trầm mặc cùng lau lách
Những đàn bò mê mải gặm hoàng hôn
Nhòa dáng khói cánh đồng như thiếp ngủ
Tiếng mục đồng bảng lảng vọng chiều hôm
 
Nhói lòng không cỏ may ghim chân bước
Quê mình ơi man mác điệu ru hời
 
Bay về đâu cánh chim trời nặng nợ
Lả giọng mây chiều... Tiếng quê gọi mòn hơi...
 
                                                        Tịnh Bình

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2025

HOA MUỘI – Bùi Chí Vinh



Đối với tôi, ngoại xâm phương Bắc Trung Cộng là kẻ thù truyền kiếp nhưng phụ nữ của họ hoàn toàn ngược lại. Tôi từng công tác ở vùng Chợ Lớn giữa thập niên 80 nên không lạ lùng gì các mỹ nhân người Hoa. Họ sang trọng và kín đáo pha chút u uẩn về thân phận lưu lạc xứ người, họ làm tôi nhớ đến "em Dìn" trong truyện ngắn CHÂN TRỜI CŨ của nhà thơ Hồ Dzếnh, họ khiến tôi rung động sáng tác bài thơ HOA MUỘI đọc trong một đêm dạ tiệc ở nhà hàng Soái Kình Lâm, khi một nữ ca sĩ Hồng Kông hát bài CÁNH HỒNG TRUNG QUỐC và MÙA THU LÁ BAY. Hát hoàn toàn bằng tiếng Hoa huyền hoặc.

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2025

CHUYỆN TÌNH CỦA ĐÔI DANH CA TUẤN NGỌC, THÁI THẢO – Đàng Sa Long



Chuyện tình khó quên của danh ca Tuấn Ngọc bắt đầu khá muộn màng. Năm 1994, lúc 47 tuổi, danh ca Tuấn Ngọc mới nên giai ngẫu với ca sĩ Thái Thảo nhỏ hơn ông 14 tuổi. Và họ vừa có được một đám cưới ngọc trai đầm ấm.

Giọng hát của danh ca Tuấn Ngọc làm say mê hàng triệu khán giả khắp nơi. Những người khó tính nhất, khi nghe danh ca Tuấn Ngọc trình bày ca khúc trữ tình, cũng phải thừa nhận vị trí đáng kể của ông trong đời sống biểu diễn. Vây quanh danh ca Tuấn Ngọc có không ít giai nhân, nhưng “chuyện tình khó quên” của ông lại chỉ gắn bó một người phụ nữ duy nhất là ca sĩ Thái Thảo.

TỪ HÁN VIỆT, ÂM HÁN VIỆT - Tri thư đạt lễ 知書達禮



Trong tiến trình tiếp xúc văn hoá, nhiều yếu tố ngôn ngữ, đặc biệt là từ vựng tiếng Hán đã du nhập vào tiếng Việt. Những yếu tố vay mượn này được người Việt tiếp nhận, biến đổi và đồng hóa, qua thời gian dần hình thành nên hệ thống lớp từ có số lượng lớn là từ Hán Việt, được sử dụng rộng rãi và ổn định trong tiếng Việt hiện nay.
 
Có thể nói từ Hán Việt và từ vựng tiếng Hán hiện đại vẫn duy trì mối quan hệ họ hàng gần gũi, do cùng bắt nguồn từ một gốc chung trong lịch sử tiếng Hán. Song do sự khác biệt về lịch sử, văn hóa và lối tư duy của hai dân tộc qua thời gian nên giữa tiếng Hán, âm Hán Việt và từ Hán Việt tồn tại những khác biệt quan trọng. Cần phân biệt chúng như sau:

TÔI ĐỌC “CHỮ NGHĨA VĂN CHƯƠNG” CỦA LA THỤY- Nguyễn Văn Trị



Mình nhận được tác phẩm "Chữ Nghĩa Văn Chương" của nhà văn La Thụy (Đoàn Minh Phú) gửi tặng qua đường bưu điện, cùng lời nhờ chuyển tặng đến một vài thầy cô và bạn đồng môn.
Trước hết xin cám ơn tình cảm bạn dành cho mình và cũng có vài cảm nhận sau khi đọc (dù tuần lễ này khá bận rộn).
 
Về tác giả La Thụy
 
La Thụy là bút danh của Đoàn Minh Phú, cựu học sinh trường TH Nguyễn Hoàng Quảng Trị niên khoá 1968 -75, giáo viên về hưu tại La Gi, Bình Thuận (cũ).
Ngoài công việc giảng dạy, anh dành trọn đam mê cho văn chương, thể hiện qua vai trò thành viên Hội Văn học Nghệ thuật Bình Thuận và là đồng quản trị trang blog Văn Nghệ Quảng Trị (cùng anh Nguyễn Khắc Phước, cựu học sinh Nguyễn Hoàng khóa 64-71). Trang blog này là nơi giới thiệu những cây bút có gốc gác quê hương Quảng Trị và các tỉnh miền Trung, kho lưu trữ bài viết được chọn lọc từ năm 2008 đến nay.
 

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

XE ĐÒ VIỆT NAM TRÊN NƯỚC MỸ - Trần Vấn Lệ



Tháng Môt San José, hết mưa, hoa quỳ nở... Đó là một niềm nhớ cho ai từ đó đi!
 
Tôi xa San José cũng ba mươi năm đã.  Nhiều khi lòng nhớ quá mà làm sao lên xe?
 
Người mình đi xa quê... xe đò đem qua Mỹ!  Đường Mỹ đường thiên lý, xe bus có, chậm rì...
 
Lên xe đò thầm thì, ai thích gì cứ nói, không biết gì cứ hỏi, im lặng thì ngủ thôi!
 
Bốn trăm dặm... tuyệt vời, dọc đường hoa và cỏ, nhiều ngọn đồi nho nhỏ nối nhau thành núi cao... 
 
Những con bò trong rào, xe ào ào, mặc kệ.  Vài con suối nhỏ bé, vài con nai săm soi...
 
Tôi thích hoa trên đồi, hoa quỳ nở thưa thớt, tôi nhìn tưởng Đa Phước, tôi nhìn tưởng Trại Hầm...
 
Mỹ giống giống Việt Nam!  Núi xanh như Đà Lạt... mà đời tôi mất mát, thở dài, quên được không?
 
*
Xe đi ngang cánh đồng... Xe vào vài thị trấn.  Xe dừng một vài chặng... rồi tăng tốc chạy hoài!
 
Mười năm trước lai rai tôi đi vì công việc.  Mười năm sau thất nghiệp...Thôi thì... một bài thơ!
 
"Tiếng Bên Trời", bạn đọc chưa?  Một tập thơ rất cũ, trăm năm xưa, quá khứ, vẫn mới, như... chiêm bao!
 
"Mười năm xưa, mười năm sau,
một hình bóng cũ xóa màu thời gian...
Cầm như đã lỗi nhịp đàn,
Cố Nhân ôi bấy ngỡ ngàng Cố Nhân!" (*)
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ

(*) Tập thơ Hà Liên Tử, "Tiếng Bên Trời" xuất bản tại Sài Gòn thập niên 1950.

KHAI CĂN 開根 – Ung Chu, Hán-Việt Thông Dụng, Thuật ngữ Toán học

 

EXTRACT - KHAI CĂN
EXTRACTION - PHÉP KHAI CĂN

Phép khai căn là phép toán ngược lại với phép nâng lên luỹ thừa, hành động thực hiện phép khai căn để tìm căn gọi là "khai căn" 開根.
- khai : mở, xẻ, phân tách, phân li, như trong "li khai", "khai trừ", "extract" tiếng Anh nghĩa là phân tách, chiết xuất, trích li

- căn : gốc rễ, thuật ngữ toán học này trong các ngôn ngữ đều xuất phát từ nghĩa đen là gốc rễ, như "root" tiếng Anh, "racine" tiếng Pháp, "Wurzel" tiếng Đức... "Radical" tiếng Anh có gốc Latin "radix" nghĩa là gốc rễ. Tiếng Nhật đọc là "kon" こん, tiếng Hàn đọc là "geun" .

"Khai căn" 開根 là từ ta mượn tiếng Trung Quốc (giản thể: 开根). Khai căn bậc hai (ngược với bình phương) được gọi là "khai phương" 開方 (giản thể: 开方). Tiếng Trung Quốc gọi căn bậc hai (tiếng Anh: squareroot) là "bình phương căn" 平方根. "Bình phương" 平方 nghĩa đen là hình vuông phẳng, cũng như "square" tiếng Anh, diện tích hình vuông là bình phương độ dài cạnh.
                                                                                  
                                                                                  Ung Chu
                                                                        Hán-Việt Thông Dụng
                                                                       #Thuật_ngữ_Toán_học

NGUYỄN PHÚC QUÂN, HOÀNG TỬ THỨ MƯỜI CỦA VUA GIA LONG, NGƯỜI QUẬY TUNG KINH THÀNH HUẾ - Lê Quang Thanh Tâm

 

Trong những người con vua Gia Long sinh ra giữa thời thái bình, không vướng gió bụi chiến chinh, thì nổi bật một vị hoàng tử ngông nghênh, ăn chơi "tới nóc", quậy tung trời đất, làm náo động chốn kinh kỳ, ấy chính là Nguyễn Phúc Quân, tức Quảng Uy Công, con trai thứ mười của Hoàng đế.

LÊ NGỌC BÌNH, NGƯỜI ĐÀN BÀ KHIẾN MỘT VỊ VUA OAI DŨNG MỀM LÒNG - Lê Quang Thanh Tâm



Số đâu có số lạ lùng,
Con vua lại lấy hai chồng làm vua!
 
Người ta thường nói vua Gia Long cứng như sắt, bén như dao. Mà thật, giữa cả giang sơn ấy, có lẽ chỉ một người đàn bà làm sắt hóa mềm, đó là Lê Ngọc Bình.
 
Cô gái Bắc Hà, con vua Lê Hiển Tông, sinh ra giữa tiếng trống triều tàn. Mười một tuổi, cái tuổi người ta còn ôm con búp bê vải, thì chị gái, Ngọc Hân công chúa, đã đành lòng ép gả em cho Quang Toản, con riêng của chồng mình. Tất cả chỉ để giữ chỗ quyền uy trong hậu cung Tây Sơn, vốn luôn đầy rẫy đấu đá của ba bà chánh thất. Và cũng là để em gái út được mang chút oai danh.
 

“LẬT SỬ”, MỘT CÁCH GỌI KHÔNG ĐÚNG - Mai Quốc Ấn



Tôi chỉ bắt đầu tìm hiểu về vua Gia Long Nguyễn Ánh từ năm 26 tuổi. Trước đó, vị đại anh hùng trong tôi là vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Và trước 26 tuổi, nhận thức của tôi đa số là từ sách vở “chính thống”.
Nói thẳng là “bị nhồi” kèm “tự nhồi” vì tôi rất mê đọc sách.
Nhưng hiện nay, những kẻ nào nói rằng những người đang đưa ra các vấn đề lịch sử với những tư liệu đa dạng, phương pháp luận khoa học là đang “lật sử” thì thật bậy bạ.

NGƯỜI NAM KỲ - Lâm Văn Bé

Giữa năm 1834, vua Minh Mạng đã chính thức đặt danh xưng Bắc kỳ và Nam kỳ thay cho cách gọi cũ là Bắc thành và Gia Định thành đã giải thể trước đó mấy năm..
 

Người dân miền Thuận Quảng, sau gần 400 năm tiếp cận với nền văn hóa bản địa Phù Nam – Chân Lạp, với người Minh Hương, người Pháp, tác động bởi một môi trường thiên nhiên khắc nghiệt thuở ban đầu nhưng trù phú về sau đã tạo cho họ những nét đặc thù mà từ ngôn ngữ đến tâm tình lẫn tâm tính có nhiều khác biệt với tổ tiên của họ ở đàng ngoài.
 

Thứ Năm, 6 tháng 11, 2025

NAM MÔ A DI PHẬT TIẾNG CHUÔNG CHIỀU BOONG BOONG - Trần Vấn Lệ



Hôm nay không có thơ.  Mình và thơ không hẹn.  Thì mình không phải đến, thơ khỏi đến với mình...
 
Hôm nay không âm thanh ngoài tiếng gió lay động những chòm cây gợn sóng lung lay như âm ba...
 
Hôm nay là hôm qua nếu nó chưa đi mất!  Tôi nhìn vào chùa Phật, thấy người ngồi đọc Kinh.
 
Kinh là sách, chữ in... trang này rồi trang khác.  Đọc thì nghe có nhạc, xếp lại là... cuốn Kinh!
 
Có vậy sao Niềm Tin người ta nhìn và thấy... máu của mình đang chảy, trí óc mình sáng ra?
 
Tôi đi hỏi nụ hoa.  Hoa cười hương thơm ngát... Tôi nghe mình như ngạt mùi hương ai áo thơ...
 
*
Ôi áo thơ ngày xưa... Câu đó là Thơ nhỉ?  Đã mấy rồi Thế Kỷ?  Hai mươi thôi!  Chừng nhiêu...
 
Nghĩa là đâu có nhiều mà nhiều người Thiên Cố!  Tôi nhớ trường hồi nhỏ, tôi nhớ Thầy, nhớ Cô...
 
Tôi chưa thăm bao giờ mả mồ Thầy, Cô cũ... Lớn lên, tôi rừng rú... Lớn thêm, tôi tàn binh!
 
Quả thật có giật mình:  Hôm Nay Thời Gian hả?  Tôi cúi nhặt chiếc lá hôn phơn phớt màu Thu...
 
Tôi nhớ có người Tu / nói đời là Cõi Tạm.  Tôi nâng vạt áo xám của người vương mây xa...
 
Một ý thơ nảy ra, lòng tôi... nằm trước mặt!  Nam Mô A Di Phật... Tiếng chuông chiều... boong... boong...
                                                                                     Trần Vấn Lệ

LỤT MIỀN TRUNG – Thơ Lê Phước Sinh


 

Thụt lên Thụt xuống
chưa đã mà sao ?!
lấp ló Sân trước
lại tràn Nhà sau...
 
Chơi chi mà bẩn
làm điên cái đầu
vừa dọn vừa bỏ
chưa đâu vào đâu...
 
Trên Nguồn ục xuống
như kiểu Băng trôi
thật chán ông Trời
hôm Lờ mai... Lút !
 
     Lê Phước Sinh

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2025

THỊNH NỘ 盛怒 - Ung Chu




- thịnh : đầy, nhiều, lớn, rất, như trong "thịnh vượng", "thịnh soạn"
- nộ : giận dữ, lòng cáu tức, như trong "cuồng nộ", "phẫn nộ".
"Thịnh nộ" 盛怒 ý nói rất giận dữ, cơn giận lớn, ta thường nói là "cơn thịnh nộ".

                                                                                                            Ung Chu

QUANG TRUNG, GIA LONG: DUYÊN ÁC HAY NỢ ĐỜI - Thu Hải Lê Xuân

 
Ảnh: chân dung Gia Long- Quang Trung

Cho hay con tạo xoay vần,
Phận thời cao quý, mệnh thời trái ngang!
Số đâu có số lạ lùng,
Con vua lại lấy hai chồng làm vua!
 
Trên là những câu ca của dân gian truyền tụng về số phận kỳ lạ của một nàng công chúa nhà Lê nhưng cuối cùng lại trở thành hoàng hậu của nhà Tây Sơn, rồi số phận dun rủi sau lại thành ái phi của nhà Nguyễn. Quang Trung và Gia Long, hai vị vua kiêu hùng của hai triều đại đối nghịch kịch liệt lại có thể cọc chèo trong lịch sử vương quyền, quả là một sự sắp đặt trớ trêu của cuộc đời!

VUA MINH MẠNG VÀ CHIẾN DỊCH CẤM CHỊ EM "MẶC VÁY" - Sử Tếu



Vào thời kỳ chia cắt giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài, giữa miền Nam và miền Bắc, trang phục nước ta vì vậy cũng có sự khác biệt giữa hai miền.
 
Theo Lê triều chiếu lệnh thiện chính, vào năm 1665 ở xứ Đàng Ngoài, vì lý do “nghiêm chỉnh phong tục”, triều đình chúa Trịnh Tạc có ra một sắc lệnh cấm phụ nữ miền Bắc mặc quần:

“Áo quần đã có phép thường, áo đàn ông thì có thắt lưng và quần có ống chân (Quần), áo đàn bà thì không có thắt lưng và quần không có ống (Váy)… Từ nay về sau, áo quần đàn bà không được có thắt lưng và cấm mặc quần có ống, để nghiêm chỉnh phong tục… Nếu bắt quả tang (ăn mặc trái lệnh) sẽ phạt phạm nhân năm quan tiền sung vào công khố…”
 
Dần dần từ đó, phụ nữ miền Bắc chỉ mặc độc áo thắt vạt và mặc váy.