“Khóm lăng khóm huệ nên hàngCúc hoa nấu hoàng lễ khắp ngoài sânMàn trướng tán lục tần vầnHuyết dụ áo lía để chân đứng bầy.”(Phùng Khắc Khoan)
Huyết dụ, hay còn gọi là phát dụ, thiết thụ, long huyết,... tên khoa học Cordyline Terminalis Kunth, vốn là cây thân thảo lâu năm, cao chừng một đến hai thước, thân mảnh có nhiều vết sẹo lá rụng. Lá mọc tập trung ở ngọn, hình lưỡi kiếm, dày và dài, có loại đỏ tía cả hai mặt, cũng có loại một mặt đỏ, một mặt xanh. Hoa màu trắng pha tím, nhỏ li ti, quả tròn và mọng. Cây huyết dụ thường mọc hoang khắp các vùng quê Việt Nam.
Huyết dụ có vị ngọt nhạt, tính mát, quy vào hai kinh Can và Thận. Cái mát của huyết dụ giúp thanh lọc huyết mạch, tiêu tan ứ trệ. Người xưa dùng lá huyết dụ để cầm máu, tiêu ứ, mát máu, bổ huyết. Các bài thuốc dân gian thường dùng huyết dụ chữa băng huyết, rong huyết ở phụ nữ sau sinh hay sảy thai, trị chảy máu cam, ho ra máu, nôn ra máu, trĩ, lỵ ra máu hoặc sốt xuất huyết. Ngoài ra, cây huyết dụ còn được dùng chữa phong thấp, đau nhức xương khớp, lao phổi, ho gà. Lá huyết dụ tươi hay khô đều dùng được cho y học cổ truyền. Khi phơi khô lá rồi sắc lên, nước thuốc có màu đỏ sẫm như rượu, uống vào vị nhạt, lưu lại hậu vị thanh.
Huyết dụ có chứa các thành phần như flavonoid (quercetin glycosid, apigenin glycosid…), saponin steroid, anthocyan (chất đỏ), tanin,... Đây là những hoạt chất có khả năng chống oxy hóa, kháng khuẩn, giảm viêm và ức chế tế bào ung thư. Nghiên cứu ở Trung Quốc và New Zealand cho thấy chiết xuất từ huyết dụ có thể ngăn ngừa tổn thương dạ dày, tăng co bóp tử cung và diệt khuẩn đường ruột. Có thể thấy, khoa học hiện đại cũng xác nhận phần nào tính “linh nghiệm” của loài cây này trong tâm thức dân gian.
Trong cảm quan thẩm mỹ Việt, “màu huyết dụ” đã vượt khỏi ý nghĩa thực vật học để trở thành biểu tượng cho cái đẹp nồng ấm. Màu đỏ tím ấy lắng sâu như màu son, ánh chiều tàn, chiếc khăn choàng trên cổ người xưa,... đi vào thơ ca dân tộc như một ẩn dụ của vẻ đẹp, tình yêu và nỗi buồn đã cũ:
Huyết dụ có vị ngọt nhạt, tính mát, quy vào hai kinh Can và Thận. Cái mát của huyết dụ giúp thanh lọc huyết mạch, tiêu tan ứ trệ. Người xưa dùng lá huyết dụ để cầm máu, tiêu ứ, mát máu, bổ huyết. Các bài thuốc dân gian thường dùng huyết dụ chữa băng huyết, rong huyết ở phụ nữ sau sinh hay sảy thai, trị chảy máu cam, ho ra máu, nôn ra máu, trĩ, lỵ ra máu hoặc sốt xuất huyết. Ngoài ra, cây huyết dụ còn được dùng chữa phong thấp, đau nhức xương khớp, lao phổi, ho gà. Lá huyết dụ tươi hay khô đều dùng được cho y học cổ truyền. Khi phơi khô lá rồi sắc lên, nước thuốc có màu đỏ sẫm như rượu, uống vào vị nhạt, lưu lại hậu vị thanh.
Huyết dụ có chứa các thành phần như flavonoid (quercetin glycosid, apigenin glycosid…), saponin steroid, anthocyan (chất đỏ), tanin,... Đây là những hoạt chất có khả năng chống oxy hóa, kháng khuẩn, giảm viêm và ức chế tế bào ung thư. Nghiên cứu ở Trung Quốc và New Zealand cho thấy chiết xuất từ huyết dụ có thể ngăn ngừa tổn thương dạ dày, tăng co bóp tử cung và diệt khuẩn đường ruột. Có thể thấy, khoa học hiện đại cũng xác nhận phần nào tính “linh nghiệm” của loài cây này trong tâm thức dân gian.
Trong cảm quan thẩm mỹ Việt, “màu huyết dụ” đã vượt khỏi ý nghĩa thực vật học để trở thành biểu tượng cho cái đẹp nồng ấm. Màu đỏ tím ấy lắng sâu như màu son, ánh chiều tàn, chiếc khăn choàng trên cổ người xưa,... đi vào thơ ca dân tộc như một ẩn dụ của vẻ đẹp, tình yêu và nỗi buồn đã cũ:
“Trăng huyết dụ xuống bên đài kỷ niệm,Lầu gác xưa nghiêng bóng lấp thời gian.Biết chăng ai? Trong giấc ngủ hoang tàn,Hồn gỗ đá nặng nề vừa tỉnh giấc.”(Đinh Hùng)
“Ta còn em tiếng trống tan trường.Màu thanh thiên lẫn trong liễu rủĐêm hoa đăng tà áo nhung huyết dụ.Đất nghìn năm còn mãi dáng kiêu sa.”(Phan Vũ)“Người qua sông có giữ nụ hôn đầuMùa trôi đi một màu trăng huyết dụMưa tháng năm đâu trở mình ngái ngủTrong khói sương giọt lệ cũng ngậm ngùi.”(Nguyễn An Bình)“Em gái trùm khăn chàmĐiểm loang màu huyết dụNhững quả hồi chín rũVít nặng cành ta em.”(Võ Văn Trực)“Tô chi màu son huyết dụCười lên rớm máu nỗi buồnVẽ chi đôi quầng mắt biếcNhìn lên thăm thẳm trùng dương.”(Phạm Ngọc Lư)
Bài viết của Khánh Ly
Trích từ Tri Thư Đạt Lễ

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét