CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2025

NỤ HÔN NÀO THƠM CŨNG TÂN NIÊN - Thơ Trần Vấn Lệ


 

Chiều đang đi hay chiều đứng yên?
Em nghe anh nói chớ?  Em hiền!
Em hiền đến nỗi trời không gió
Em dễ thương ôi chiều Tất Niên!
 
Coi như đã hết năm, ngày cuối
Em mới bây giờ tỉ cái hôn!
Em có hiểu không sao lại thế
Anh yêu em đến cả phi thường!
 
Mà tại em thôi!  Ai biểu đẹp
Cho trời cho đất ngập tràn thơ
Những con sông cũng tràn con nước
Chảy mãi đi tìm một bến mơ!
 
Thơ dễ dàng như em vậy nhé
Nụ hôn nào thơm cũng Tân Niên
Em là chỗ cuối cùng không ghét
Mà chỗ đầu đời: Hoa Nở Duyên!
 
Chiều đứng yên em trong lòng anh
Trong câu yêu quý gọi em Mình!
Thương từng cái ngón chân em đó
Cũng tại vì anh thương nhớ Em!
 
                                  Trần Vấn Lệ

CHẠM THU, MẶC NIỆM SEN, VÔ NGÔN - Thơ Tịnh Bình


    


CHẠM THU
 
Chợt xa rồi khúc giao mùa bảng lảng
Lá mùa thu ẩn hiện sớm mai thơm
Ngày ươm gió mọc đầy trời hoang vắng
Áo vàng thu phơ phất nắng mơ màng
 
Nghe se sẽ dịu dàng hương nội cỏ
Chạm cúc hoa ngỡ màu nhớ tinh khôi
Thu kịp đến trao mùa xưa thinh lặng
Lơ đãng heo may bối rối hương thầm
 
Hong tóc gió trở về mùa thiếu nữ
Hát vu vơ theo bầy sẻ vô tư
Thu lắng đọng thương mùa sen đi vắng
Ru nồng nàn giọt ký ức mềm môi
 
Mưa thánh thót vỗ về đêm lặng
Phố trầm tư tiếng gió mơ hồ
Rưng sắc lá tiễn mùa quá vãng
Lối mờ sương loang vết thu tàn...
 

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

THỦY TẠ 水榭 – Ung Chu

 

Các công trình xây trên mặt nước hoặc bao quanh là nước thường được gọi là "thuỷ tạ", ở Việt Nam có nhiều nhà hàng thuỷ tạ. Một số người cho rằng "thuỷ tạ" là cách viết sai chính tả, lập luận rằng phải là "thuỷ toạ" với "toạ"  nghĩa là ngồi.

Tuy nhiên, "thuỷ tạ" 水榭 là từ lâu đời trong Hán ngữ, tiếng Nhật đọc là "sui-sha" すいしゃ, tiếng Hàn đọc là "su-sa" 수사.

- thuỷ : nước
- tạ : nhà xây trên nền cao (đài, bệ, sàn...), tức là thay vì xây trực tiếp trên mặt đất thì sẽ làm một cái nền nâng lên rồi mới xây, chữ này mang bộ "mộc"  (cây gỗ) và kí âm bằng chữ "xạ" .
 
Thôi Thực 崔湜 thời Đường  có thơ đề rằng:
 
水榭宜時陟
山樓向晚看
 
Thuỷ tạ nghi thời trắc
Sơn lâu hướng vãn khan
 
Nghĩa là:

Leo lên thuỷ tạ vào thời điểm thích hợp, ngắm nhìn nhà lầu ở núi lúc nhá nhem.
                                                                                           Ung Chu

BÙI GIÁNG, GÁI MỘT CON TRÔNG MÒN CON MẮT - Trần Hoàng Vy


Bùi Giáng và Thu Trang

Trong bài thơ Mắt buồn in trong tập Mưa nguồn xuất bản tại Sài Gòn năm 1962, có 2 câu thơ kết đã gây nhiều tranh cãi trong giới văn nghệ sĩ của miền Nam trước 1975 và cả đến bây giờ là: “Bây giờ riêng đối diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con”.
Người ta thắc mắc với hình ảnh “Còn hai con mắt khóc người một con” là như thế nào? Điều đó có hàm ý gì và ẩn nghĩa ra sao? Có rất nhiều giả thuyết và giai thoại được đem ra giải thích, song có vẽ như chưa thật sự thuyết phục, trừ khi đấy là lời thú nhận từ chính bản thân Trung niên thi sĩ, nếu ngài… sống dậy!

TÔI CẢM THẤY XẤU HỔ - Khuất Đẩu

 "Khi tôi đọc nhẫm một câu thơ, hay một câu nhạc hay; tôi thường nhớ về các ông Tây truyền đạo này với lòng biết ơn đầy kính trọng...".

 
Cha-Alexandre-De-Rhodes

Tôi thực sự cảm thấy xấu hổ! Hơn 300 năm trước, bằng 24 chữ cái và 5 dấu các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ đã cơ bản ghi lại trên giấy thứ tiếng “hót như chim” của người Việt.
Đó là cánh cửa thần kỳ mở ra cho cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cơ hội tiếp cận với văn minh Âu châu.
 

TANG ĐIỀN, TANG HẢI, TANG THƯƠNG - Mỹ Trinh.



Bể dâu” vốn là cách nói vắn tắt của thành ngữ Hán văn “thương hải tang điền” (蒼海桑田), nghĩa là “biển xanh biến thành ruộng dâu”. Điển tích này xuất phát từ “Thần tiên truyện”: tiên nữ Ma Cô từng kể rằng trong khoảng thời gian quen biết Vương Phương Bình, bà đã ba lần chứng kiến biển Đông biến thành ruộng dâu. Ý niệm ấy trở thành một hình ảnh ẩn dụ để chỉ sự biến đổi lớn lao, khôn lường của vũ trụ.
 

“MÔ NGƯ NHI, NHẠN KHÂU BÀI” BÀI TỪ MÀ LÝ MẠC SẦU HÁT TRONG TRUYỆN “THẦN ĐIÊU HIỆP LỮ - Đông Phương Bá

 
Hình: Internet

Mô ngư nhi - Nhạn khâu bài từ mà nữ ma đầu Lý Mạc Sầu thường hay đọc trong tác phẩm Thần Điêu Hiệp Lữ.

Ai đọc tiểu thuyết hay coi các bản phim kiếm hiệp chuyển thể từ tiểu thuyết Thần Điêu Hiệp Lữ của cố nhà văn Kim Dung, chắc cũng có ấn tượng về bài thơ của nữ ma đầu Lý Mạc Sầu, vì tình mà tác ác đa đoan. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này.

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

MÀ BÓNG CHIỀU PHAI VÌ ĐÂU?! – Phạm Hiền Mây




I.  NGÀY ĐI CHIỀU MANG SẦU TỚI

Trong hơn một trăm ca khúc sáng tác, thì Thu Ca  Thương Hoài Ngàn Năm, được xem là hai ca khúc làm nên tên tuổi của nhạc Phạm Mạnh Cương.
Thu Ca được Phạm Mạnh Cương viết vào năm 1953, lúc ông vừa tròn hai mươi tuổi. Ca khúc này, còn được giới chuyên môn đánh giá là một trong những bài Tango nổi tiếng nhứt của tân nhạc Việt Nam.
Ngay từ khi còn học bậc trung học, Phạm Mạnh Cương đã rất mê nhạc, đặc biệt là các ca khúc của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn. Năm 1953, ông từ Huế ra Hà Nội, để nhập học trường Cao Đẳng Sư Phạm và Cử Nhân Văn Chương, ông đã xúc động trước vẻ đẹp vừa lạnh vừa buồn của mùa thu nơi đây, và rồi viết nên ca khúc Thu Ca.

Thu Ca nổi tiếng ngay từ những ngày đầu xuất hiện, và cho đến tận hôm nay, hơn bảy mươi năm sau, Thu Ca vẫn còn nguyên vẹn sức hút, sức quyến rũ, rất tự nhiên, bằng chính lời ca và giai điệu của mình.
Chuyến xe từ sân bay về nơi trọ học của ông hôm ấy, có đi ngang qua trường nữ sinh Trưng Vương, trong một chiều chớm thu buồn se sắt.
Chợt, nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương bất ngờ tận mắt nhìn thấy các cô nữ sinh xứ Bắc Hà, nhẹ nhàng, bước đi khoan thai trong chiếc áo dài thướt tha, dịu dàng, khi gió mùa thu đang tràn về khắp chốn
Thế là, ngay lúc đó, trong suy tưởng ông, đã dần hình thành giai điệu, lời hát, của ca khúc Thu Ca.

ĐÊM MÃI THANH XUÂN – Thơ Trần Mai Ngân


    
                                Nguồn ảnh trên google.

Đêm nhen nhúm cháy nồng nàn tình cũ
Của thanh xuân trên miền trắng đôi bờ
Đôi tay níu, bấu riết cõi ơ hờ
Ú ớ gọi tên nhau không tròn tiếng...
 
Đêm bồng lai mênh mang đêm giữ lại
Một đêm nay và chỉ một đêm nay
Ngực căng đầy mùi hương ủ không phai
Nốt son đỏ phập phồng theo nhịp thở...
 
Đêm cứ thế trốn tìm nhau bỡ ngỡ
Trong chập chùng trong mê dại ...trong nhau
Nụ môi hoa xin uống cạn ngọt ngào
Vầng nguyệt khuyết treo cao làm nhân chứng...
 
Vầng nguyệt khuyết treo cao làm nhân chứng !
 
                                                 Trần Mai Ngân

CÓ ĐÔI KHI CHIM MÍA HÓT RỒI BAY LÊN TRĂNG – Trần Vấn Lệ



Những cây me Sài Gon / hơn trăm năm đã mất...Một phần khiến đường chật / nên người ta đốn đi.  Một phần vì nín khe, biển dâu đời kệ nó..., người ta không thích nữa, người ta cũng đốn đi...
 
Hình ảnh thuở Nam Kỳ / những hàng me xanh biếc, bây giờ là nỗi tiếc, nỗi nhớ nhung và thương... Người đi bộ lạc đường.  Con đường nào cũng lạ.  Bảng tên cũ thay cả.  Bảng tên mới chưa quen...
 
Thôi thì cứ cười duyên / vỗ về niềm ký ức.  Hồi đầu có người tức - có tức giận tức cười:  Giản đơn "đời là thời" / mà Thời đi theo Thế,  Thế là Thời... mặc kệ.  Im lặng cho nó lành... Chuyện của trời - Trời Hành, chuyện của người...Hạ Tiện!
 
Hành Hạ đều đau điếng!  Ông Trời bèn nắng mưa!  Người ta bèn nhắc thơ:  "Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ, đèn chợ Mỹ ngọn tỏ ngọn lu, anh đi chiến trận biên khu, chín trăng em cũng đợi, mười Thu em cũng chờ...".
 
Đó!  Đó!  Sài Gòn mơ!  Vọng cổ ca mờ mắt!  Moi ruột ra ngồi cắt, ngồi xắt... từng đoạn từng đoạn đời!  Trai gái đi tìm đôi... năm mươi năm bạc tóc!  Đôi khi nghe lọc cọc / tiếng xe ngựa chiêm bao...
 
Ông Mai Thảo đếm sao / góc nào đêm nghĩa địa.  Có đôi khi chim mía / hót rồi bay lên trăng... Có đôi khi Vũ Hoàng Chương "gõ nhịp mà ca thiên nhất phương!".
 
                                                                                     Trần Vấn Lệ

PHẢN HỒI BÀI VIẾT CỦA NHÀ VĂN UÔNG TRIỀU - Đặng Chương Ngạn

Nguồn:
https://www.facebook.com/dangchuongngan/posts/pfbid02ay8QijCXZPNfxGNgi5uBgjUwTDsxLaxHY46MravQPYggEbfTkLRPb6cnxFHpmXzDl

Nhà văn Đặng Chương Ngạn

Nhà văn Uông Triều vừa đăng một bài viết về tôi: “ÔNG ĐẶNG CHƯƠNG NGẠN ĐẶT ĐIỀU, VU KHỐNG VÀ BỊA ĐẶT”, có nhiều quan điểm sai trái, vu khống và nhầm lẫn. Vì vậy, tôi sao chép về đây để phản hồi từng nội dung một, nhằm làm rõ vấn đề.
Một số người luôn hỏi tại sao tôi viết nhiều như vậy, trong khi gần đây, để bảo vệ việc trao giải thưởng không phù hợp, Báo Văn nghệ liên tục đăng 5 bài viết, và hôm nay nhà văn Uông Triều lại viết tiếp bài mới “Đây là lần cuối cùng tôi nói về những chuyện này”. Dù trước đây, ông ấy đã từng tuyên bố: “Tôi chỉ nói lần này rồi thôi!”

Link bài viết của nhà văn Uông Triều:
https://www.facebook.com/thay.uong.622022/posts/pfbid02GGLutPn4Dvcq3w6aDnhYPPTSpGavfcSeoE9JKAM2TNJxLMnbx1BJvyBZbDF4D2u5l
 

ĐYNH TRẦM CA, LỤC BÌNH NGỪNG TRỔ BÔNG – Nông Hồng Diệu

 
Ảnh : Đynh Trầm Ca
 
“Nhánh mù u con bướm vàng không đậu
Câu ca từ thuở thơ dại ru sang
Sông quê, trường làng, con đò trên cát lở
Cũng vì em xa mà thành điệu nhớ não lòng…”
 
Tác giả “Sông quê” nay đã 83 tuổi. Ông đang sống ở quê nhà Quảng Nam sau quãng đời gió bụi. Đynh Trầm Ca đã ngưng sáng tác khoảng 20 năm nay. Phải chăng, với ông, thơ và nhạc cuối cùng chỉ là… phù phiếm?
Đynh Trầm Ca nổi tiếng từ trước 1975 với nhạc phẩm “Ru con tình cũ”:
 
“Ba năm qua em trở thành thiếu phụ
Ngồi ru con ru quên phận buồn…”.
 
“Ru con tình cũ” được Đynh Trầm Ca sáng tác năm 1967 nhưng phải 3 năm sau, 1970, nhạc phẩm mới được phổ biến qua tiếng hát Lệ Thu. Đây cũng được xem như sáng tác đầu tay của Đynh Trầm Ca.
 

Thứ Hai, 22 tháng 9, 2025

HUY HOÀNG (輝煌)- Bài viết của Khánh Ly

 
Hình ảnh: Huy hoàng (輝煌) -  thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ.

"Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm."
                      (Giục giã, Xuân Diệu)
 
Huy hoàng, chữ Hán viết 輝煌 - một từ gợi lên nét nghĩa rực rỡ, lộng lẫy trong tiếng Việt. Huy hoàng thường được dùng trong đời sống và văn chương, ngoài nét nghĩa rực rỡ thì còn miêu tả thành tựu xuất sắc, thời kỳ vẻ vang hoặc những khoảnh khắc tỏa sáng của con người.
 
Trong đó, Huy  có nghĩa là ánh sáng rực rỡ, giống như sách Thuyết Văn Giải Tự chú rằng “Huy, quang dã”, tạm dịch là: Huy, nghĩa là ánh sáng vậy. Chữ này thuộc loại hình thanh, gồm bộ quang  biểu ý, gợi đến sự sáng sủa, bao quát mọi nguồn sáng nói chung và chữ quân  cho âm. Ngoài huy hoàng, từ quang huy mà ta hay gặp dùng nghĩa của chữ Huy này.
Hoàng  cũng có nghĩa là ánh sáng rực rỡ. Đây là chữ hình thanh kiêm hội ý, gồm bộ hỏa  biểu ý ánh lửa cháy rực. Chữ hoàng  vừa là phần cho âm, vừa tượng trưng cho sự cao quý và rực rỡ của bậc vương giả. Chữ này bổ sung cho chữ Huy  sắc thái lộng lẫy, như ánh lửa bùng cháy kiêu sa. 

Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2025

HELLO MÙA THU MỚI – Trần Vấn Lệ



Không thể không áo lạnh / bây giờ khi ra vườn!  Mới sáng sớm tinh sương:  mát - lạnh rồi, gió mới...
 
Thế là mùa Thu tới!  Hân hoan chào mùa Thu!  Chùa xa, những Thầy Tu / rung chuông và gõ mõ!
 
Nhà Thờ báo với Chúa:  hân hoan lòng mỗi người.  Vui thôi, không tiếng cười, nhường cho chuông thánh thoát...
 
Anh hứng chút gió mát / chải tóc em nha Thương!
Tôi nhặt lá trong vườn.  Nhặt chơi vài chiếc lá...
 
*
 
Mặt trời lên!  Đẹp quá.  Hiền mơ như thi nhân!  Sáng, mát lạnh như trăng tung cái mền nũng nịu!
 
Em ơi, thơ anh níu... năm mươi năm về xưa!  Chải nhé hàng lá dừa mướt phù sa sông Cửu!
 
Mướt em...mà thiếu thiếu nụ hôn sắp nở hoa!  Em của anh không già!  Mùa Thu hoài xanh biếc...
 
Chỉ con thuyền xa thiệt trong trùng dương đại dương...
Chỉ hai chữ Quê Hương mà triệu người sống, thác!
 
Em cắm nhang thơm ngát:  Hôm nay Ngày Giỗ Ba!
Em sửa lại bình hoa... Ngón tay em nước mắt...
 
Tình Yêu luôn có thật:  Anh hôn em trong mơ!
 
                                                                                 Trần Vấn Lệ

MẸ CHA – Thơ Lê Kim Thượng


   

 
Mẹ - Cha
 
1.
Người xa, trở lại quê nhà
Bước chân lối cỏ, nắng tà chân đê
Người về lưng tựa bóng quê
Ấm lòng trong những vỗ về thương yêu
Vi vu gió thổi sáo diều
Bóng ai như bóng Mẹ yêu đang chờ
Ruộng đồng xanh thẩm đôi bờ
Dòng sông ngày ấy, tuổi thơ lên mười
Bến sông một đóa hoa cười
Nước trôi mang nặng tình người say mê
Người về tìm mái nhà quê
Tìm hình bóng Mẹ nhớ về… Ngày xưa
Mẹ - Cha cày cấy nắng mưa
Nhọc nhằn, tần tảo sớm trưa trên đồng
Một đời sống với nghề nông
Cơm no, áo ấm hằng mong ơn Trời…
 
2.
Con giờ góc biển chân trời
Công Cha, nghĩa Mẹ… rối bời lòng con
Ruộng đồng mưa nắng mỏi mòn
Sớm mai sương trắng, hoàng hôn nắng tà
Quê hương là Mẹ, là Cha
Nuôi ta khôn lớn, nuôi ta thành người
Cha cho con một cuộc đời
Mẹ cho hơi ấm, ngàn lời ru êm
Cha là ánh sáng trong đêm
Cho con vững bước khi thêm tuổi đời
Mẹ là cánh võng tuyệt vời
Câu ca dao cũ ầu ơi … ngọt ngòn
Giờ con Chữ Hiếu chưa tròn
Công Cha, nghĩa Mẹ…héo hon võ vàng
Đâu là hạnh phúc thế gian
Có Cha, có Mẹ muôn vàn yêu thương…
       
                 Nha Trang, tháng 09. 2025
                          Lê Kim Thượng

BUỔI CHIỀU MÙA THU, SƯƠNG TRẮNG BAY – Thơ Tịnh Bình


   


BUỔI CHIỀU MÙA THU
 
Rơi chiếc lá thu thật khẽ
Dường như chiều mênh mông...
 
Ngón tay gầy lướt trên phím thời gian
Cọng gió thổi sợi buồn mê mải
Ánh mắt màu thu u uẩn
Ám ảnh suốt mùa dài
 
Gió về lối gió
Những đám mây màu tro như chực khóc
Chiều ầng ậng nước
Lòng tưởng êm tiếng sóng
Muôn lối đổ về sông
 
Chiếc lá cuối cùng vờ đi đâu đó
Chiều trống rỗng mênh mông
Khúc hát mùa thu ai ngân nga giai điệu
Như dắt tôi về vườn xưa
Vùng cỏ dại sương mù...
 

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2025

KIM DUNG VIẾT “TRIỆU MINH” HAY “TRIỆU MẪN”? - La Thụy sưu tầm và biên tập

Nhiều người cho rằng dịch giả Từ Khánh Phụng trước 1975 trong bản "Cô gái đồ long" dịch sai tên nhân vật là TRIỆU MINH 趙明. Các bản dịch "Ỷ thiên đồ long ký" hiện nay nhân vật này là TRIỆU MẪN 赵敏
 

Facer John Tran lên tiếng: 
"Bản gốc đăng lần đầu trên Minh Báo viết 趙明 TRIỆU MINH, bản phim do TVB sản xuất năm 1978 cũng ghi tên nhân vật là 趙明  TRIỆU MINH,
Kim Dung không đặt’ thì ai đặt? Trước khi chỉ trích dịch giả, làm ơn tìm hiểu bản gốc của đoạn mình đang chỉ trích."
 
Tự điển Bách khoa toàn thư Wikipedia ghi:
 
"Trong bản in lần thứ nhất của Ỷ thiên đồ long ký, Triệu Mẫn có tên là Triệu Minh (Zhao Ming), tên thật là Minh Minh Đặc Mục Nhĩ (Mingming Temür), phong hiệu là Triệu Minh quận chúa. Trong bản in lần thứ hai, Triệu Minh đổi tên là Triệu Mẫn (Zhao Min) 赵敏, tên thật là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ (Minmin Temür), phong hiệu là Triệu Mẫn quận chúa. Triệu Minh hay Triệu Mẫn đều là tên Hán do cô tự đặt cho mình.
Kim Dung miêu tả về Triệu Mẫn như sau: "Xinh đẹp vô cùng, nhan sắc diễm lệ, mặt sáng như ngọc, mắt trong như nước, nét cười dịu dàng, diễm lệ. Chỉ trong một hai câu nói cũng không thể miêu tả được hết vẻ đáng yêu, thuần khiết và xinh xắn của nàng".
 
Bản gốc đăng lần đầu trên Minh Báo viết 趙明 TRIỆU MINH

XÃ TẮC 社稷 - Nguyễn Việt sưu tầm



Xà là thần Đất.
TẮC  là thần lúa. (Tắc là một thứ lúa, hột gạo màu vàng, xưa cho là đứng đầu các thứ lúa gạo, nên thần coi các thứ lúa cũng gọi là Tắc).
Xã tắc ban đầu chỉ thần đất và thần lúa, rồi mang nghĩa “chỗ tế thần đất, thần lúa”. Chỗ tế này được gọi là XÃ TẮC ĐÀN (社稷壇), là một trong các loại đàn tế cổ, được các vị Vua cho lập để tế Xã thần (Thần Đất) và Tắc thần (tức Thần Nông) - hai vị thần của nền văn minh lúa nước.
 Xưa kia, hễ họ vua này mất về họ vua kia, thì nơi thờ thần XÃ-TẮC cũng đổi thay theo. Vì thế, XÃ TẮC mở rộng nghĩa là “đất nước” và thường được gộp chung với “giang sơn” để có cách gọi  “giang sơn xã tắc”.
 
                                                                           Nguyễn Việt sưu tầm

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2025

BAO LA - Lê Trọng Nghĩa


Hình ảnh: Hiểu Nghi

Chúng ta thường dùng “bao la” để chỉ thứ gì đó “rộng lớn đến mức vô cùng tận” (Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên), chẳng hạn như “vũ trụ bao la”, “biển rộng bao la… Tuy nhiên, nghĩa đen của từ này không hẳn ai cũng rõ.

Thực tế, “bao la” là một từ gốc Hán, vốn có Hán tự là 包羅. Trong đó:
Bao” () là “bọc, gói”, cũng là “bao" trong  “bao quát”, “bao hàm”
La” () nghĩa là “cái lưới”, cũng là “la" trong “thiên la địa võng”, “la liệt".
Như vậy, “bao la” có thể được hiểu một cách đơn giản là “cái lưới dùng để bao bọc tất cả”.

Nói đến không gian rộng lớn, ta còn có từ “bát ngát". Thực tế, từ này vốn có nghĩa gốc là “thương nhớ, lo buồn" (xem Tiếng Việt ân tình, tập 1)
Tóm lại, “bao la” là một từ gốc Hán, có nghĩa đen là “cái lưới bao trùm tất cả”.
                                                                                 Lê Trọng Nghĩa

MẸ TÔI, TÓC XANH NHUỘM BẠC THÁNG NGÀY! - Phạm Hiền Mây



I. MẸ TÔI, NẮNG MƯA CHẲNG NGẠI NHỌC NHẰN

Ai được sinh ra, hoặc từng sống tại miền Nam, trước 1975, tôi tin, không ai là không biết ca khúc Lòng Mẹ của nhạc sĩ Y Vân và nhạc phẩm Mẹ Tôi của nhạc sĩ Nhị Hà.

Các ca khúc này, có thể nói mà không cảm thấy ngại ngần, là những ca khúc viết về mẹ hay nhứt.
Đặc biệt, ca khúc Mẹ Tôi, do nhạc sĩ Nhị Hà soạn vào năm 1948, lúc ông chỉ mới vừa mười ba tuổi.
Xin nhắc lại, ca khúc Mẹ Tôi, ca khúc khiến triệu triệu người rơi lệ, được Nhị Hà sáng tác, khi ông chỉ mới vừa mười ba tuổi. 

Bảy mươi bảy năm qua rồi, Mẹ Tôi, ca khúc ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng của Nhị Hà, đến nay, vẫn tiếp tục được yêu thích, vẫn tiếp tục làm rung động, vẫn tiếp tục được cất lên bởi các giọng ca ngọt ngào, và được khán thính giả khắp nơi tìm nghe không ngớt.
Mẹ trong ca khúc Mẹ Tôi rất đẹp.

Đẹp, không chỉ bởi tình yêu thương trời bể mẹ dành cho các con của mình, mà mẹ đẹp còn vì sự hy sinh, sự hy sinh rất đỗi âm thầm, sự hy sinh đến tận cùng, thậm chí, cả tánh mạng mình, mẹ cũng không tiếc. Mẹ sẵn sàng dùng cả tánh mạng mình, để che chở cho con, cho con được sống, và cho con được thành người.  

“SĂM SOI” VÀ “XĂM XOI” - Hoàng Tuấn Công

 

Vua Tiếng Việt (11/7/2025) yêu cầu “Hãy viết lại cho đúng từ sau: “xăm xoi”. Người chơi viết lại “săm soi”, liền được MC Xuân Bắc xác nhận là “Chính xác. Chúc mừng bạn”.
Như vậy, theo Vua Tiếng Việt, viết “xăm xoi” là sai chính tả.
Thực ra, “xăm xoi” không phải là lỗi chính tả của “săm soi”, mà đây là hai từ khác nhau.
 
1-SĂM SOI

“Săm soi” là gì?
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên - Vietlex) ghi cho săm soi 2 nghĩa: “1 ngắm đi ngắm lại một cách thích thú. săm soi mình trong gương ~ “Long chìa ra một chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Seiko, săm soi giữa lòng bàn tay.” (Cao Duy Thảo). Đn: săm se; 2 nhìn với vẻ hết sức chú ý, như để phát hiện đến từng chi tiết nhỏ. “Những nhà có máu mặt trong khu này thuê bà gánh nước. (…) Họ săm soi xem thùng nước bà gánh về có trong không.” (Võ Thị Hảo). Đn: săm se”.
Chữ “săm” gốc Hán do chữ “thám”  có nghĩa là dò xét.
Mối quan hệ TH↔S (thám↔săm), ta thấy xuất hiện trong rất nhiều trường hợp khác như: thâm ↔sâu; thiết ↔sắt; thải ↔sảy; tháp ↔sập (cái sập); tháp ↔sụp/sập (đổ sụp/sập),…Mối quan hệ AM ↔ ĂM, ta có thám ↔thăm; đam ↔đăm/chăm; đàm ↔chằm; đạm ↔đằm; khảm ↔khăm (cái khăm, chơi khăm),…
Với chữ “soi”, gốc Hán do chữ “chiếu”  nghĩa là soi, rọi. Mối quan hệ CH↔S, ta còn thấy trong nhiều trường hợp khác như: chẩn ↔sần/sởi (sần sùi; sởi = thứ bệnh gây sốt, nổi mụn đỏ); chẩn ↔soi tìm/xem xét (trong chẩn bệnh); chu ↔son (son trong đỏ như son). Mối quan hệ IEU↔OI, như khiếu ↔gọi; khiêu ↔khơi/gợi; liễu↔rồi; triệu ↔mòi/vòi (dấu hiệu, triệu chứng); triệu ↔vời/mời/đòi,…
Trong tiếng Hán, từ thám chiếu 探照 (săm soi), được Hán ngữ đại từ điển giảng là thám tầm chiếu xạ 寻照射, nghĩa là dò tìm, soi rọi, mang nét nghĩa gần giống săm soi trong tiếng Việt.