Nguồn:
https://tapchicuaviet.com.vn/van-hoa-thoi-dai/tho-nhu-giot-mau-ua-12601.html
Nguyễn Thị Hoàng là nhà văn nữ nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975, tác phẩm “Vòng Tay Học Trò” của bà từng gây xôn xao dư luận. Bà sinh năm 1939 tại Huế, nhưng quê bà ở làng Quảng Điền, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Sau năm 1975, Nguyễn Thị Hoàng vắng bặt trên văn đàn. Mãi đến năm 1990, tức là sau 15 năm, Nguyễn Thị Hoàng mới xuất hiện trở lại với Nhật ký của im lặng, và năm 2007 với bài viết Nghĩ từ thơ Thái Kim Lan đăng trên Tạp chí Văn hóa Phật giáo số Xuân Mậu Tý. Đáng chú ý, đầu năm 2020, có hai tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng được xuất bản, thông qua Nhà xuất bản Hội Nhà văn, đó là tập thơ Mây bay qua trời xưa và tập truyện ngắn Trên thiên đường ký ức. Dự kiến sẽ xuất bản Người yêu của Đấng Trời và Nhật ký của im lặng. Đây là lần xuất hiện trở lại thứ hai của Nguyễn Thị Hoàng sau năm 1975, có vẻ như được chuẩn bị kỹ hơn, nhiều tâm sức hơn, khi hiện nay bà “vẫn sống và viết ở Saigon, trong cõi riêng biệt lập bình an” như lời ghi trên các bìa sách của bà vừa xuất bản.
Qua lời tựa Nói với… của Nguyễn Thị Hoàng viết cho tập thơ Mây bay qua trời xưa, người đọc được biết năng khiếu làm thơ của Nguyễn Thị Hoàng phát lộ rất sớm, từ lúc còn học lớp 5, lớp 7. Tập thơ Mây bay qua trời xưa tập hợp, tuyển chọn những bài thơ Nguyễn Thị Hoàng đã viết từ 1960 đến 2018. Nhận xét tổng quan về thơ Nguyễn Thị Hoàng, nhà thơ quái kiệt Bùi Giáng đã dành “lời lời châu ngọc” để ngợi khen: Thơ Nguyễn Thị Hoàng trang nhã như thơ Bà huyện Thanh Quan, mà lại cũng cay đắng như thơ Hồ Xuân Hương, nhiều lúc nghe thống thiết như thơ bà Đoàn Thị Điểm (1).
Bùi Giáng dùng từ “như”, tức là đã làm “văn học so sánh” khi đọc thơ Nguyễn Thị Hoàng trong mối liên tưởng đến các nhà thơ cổ điển nổi tiếng. Có “như” thì cũng phải có “khác” chứ! Ta hãy tạm gác từ “như” qua một bên để đọc Mây bay qua trời xưa với một tâm thế khác, để đi tìm nét mới, nét riêng, nét khác của thơ Nguyễn Thị Hoàng.
Nguyễn Thị Hoàng, năm 2007
(Ảnh của Thái Kim Lan)
Thơ Nguyễn Thị Hoàng có lối xưng tụng tình yêu khác với thơ tình của những người khác. Với Nguyễn Thị Hoàng, tình yêu có vai trò như một sự “sáng thế”, sự khởi nguồn cho tất cả, tình yêu tôn vinh ngôi vị con người trên cả hai trục không gian và thời gian: đại cuộc và tương lai:
Sẽ từ em tất cảSau lưng thời hai mươiCùng mặt trời rực rỡMọc lên một loài người…Sẽ là chương thứ nhấtHuyền sử của muôn loàiTừ đôi môi ngây ngấtMột lần em mỉm cười…Vì em là tất cảTa sẽ nối tay đờiVươn vai qua thế kỷĐưa Con Người lên ngôiXin tình yêu diễm phúNuôi lòng lành trong tôiXin tiêu tan địa ngụcĐể trần gian tuyệt vờiXin tình yêu diễm phúcGhi lời thề không nguôiMột đời cho Đại CuộcMột người cho Tương Lai(Ước nguyện)
Mãi mãi từ em khởi nguồn tất cảNgàn muôn năm trời đóng mở luân hồi(Vết thương vĩnh cửu)
Trong tình yêu, con người được giao hòa cùng vũ trụ, được hấp thu sinh lực từ muôn trùng:
Khi ta nhìn đắm đuối đôi môi emLà tin vui hạnh ngộ đã lan truyềnHồn tiểu ngã giao thoa cùng đại ngãVượt muôn trùng sức sống trở về tim(Ngộ nhận)
Thế giới trong thơ tình Nguyễn Thị Hoàng là một thế giới khác thường, thể hiện trên cả hai trục không gian và thời gian: không gian rợn ngợp, còn thời gian nghiêng thế kỷ, một thế giới được nhân hóa mạnh mẽ:
Có phải bởi nhìn nhau nên đất trời rợn ngợpMấy ngàn năm yêu dấu chỉ một lầnBuổi em về trên đỉnh ngọn Lạp SơnAnh có thấy trần gian nghiêng thế kỷ(Tiếc)
Trong thế giới khác thường đó, những cử chỉ âu yếm của đôi tình nhân dành cho nhau không còn là những cử chỉ thường tình muôn thuở nữa mà đã trở thành những nghĩa cử trân quý, những nghi thức xưng tụng đặc biệt của “tôn giáo ái tình”:
Em sẽ rửa chân anhBằng môi và tóc em…Em sẽ rửa chân anhBằng mồ hôi và nước mắt em…Em sẽ rửa chân anhBằng hồi sinh ngàn kiếp cho em…Em sẽ rửa chân anhBằng vầng sao long lanh...Em sẽ rửa chân anhVới ngàn hoa hồng xanh(Phục sinh)
Tình yêu là cùng chung hơi thở, như hơi thở của nhục cảm trong thơ Xuân Diệu: Hãy khắng khít những cặp môi gắn chặt hay hơi thở của sự hòa điệu trong thơ Huy Cận: Hồn em anh thở ở trong hơi. Hơi thở tình yêu trong thơ Nguyễn Thị Hoàng là hơi thở của “tôn giáo ái tình”, thở tha thiết, khẩn khoản như một nguyện cầu, thở nồng nàn khát vọng như lửa cháy:
Anh có thấy chiều nay em thởBằng lời thiêng thánh kinhChuyện chúng mình(Phương trình hợp nhất)Bao nhiêu lửa cháy lên trờiTừ khi hơi thở yêu người long lanh(Phân thân)
Xưng tụng tình yêu hết mực, vẫn với bút pháp độc đáo dựng cảnh, dựng tình trên hai trục không gian và thời gian gắn kết nhau, thơ Nguyễn Thị Hoàng đã dựng nên hình ảnh người tình mang chiều kích đặc biệt. Trong sinh thể nhỏ nhoi của con người, có chứa sự trường sinh của thời gian và sự mênh mang của vũ trụ, như thể thấy được rằng “trong hạt cải có chứa núi Tu Di” vậy:
Ngọn trường sinh từ hạt bụi nơi chânTòa vũ trụ ẩn trong ngần dưới áo(Tuyệt tịnh)
Xưng tụng tình yêu hết mực, Nguyễn Thị Hoàng có nhiều thi tứ hoan ca chất ngất:
Hãy nhảy trong đời nhauKhúc flamenco ngập nắngCát mặt trời và đêm lửa dậm chânTrên nền định mệnh chói chang tuyệt phúc(Thể hiện)
Bút pháp thơ kết nối khéo léo cõi thực và cõi mộng, cõi hư, cái hữu hình và cái vô hình, cái nắm bắt được và cái không nắm bắt được… trong thế giới vi diệu của tình yêu: gối đầu lên trăng tàn, gối đầu lên hương phai hay sấp mình trên nỗi ăn năn:
Dáng em khuất nẻo thiên đườngTôi về gối chiếc trăng tàn khuya nay(Tiếng gọi)Ngồi gối đầu lên hương đã phai(Lung linh)Chiều nay xin nằm xuốngSấp mình trên ăn năn(Số phận)
Tình yêu hướng đến cái tuyệt đối, như Xuân Diệu viết: Anh thèm muốn vô biên và tuyệt đích. Diễn tả đến tận cùng cái tuyệt đối này, có lúc Nguyễn Thị Hoàng mượn ngôn ngữ toán học, hóa học để triết lý về cái một, cái nhất thể hòa điệu của tình yêu:
Đâu cần phải là những vòng tròn đồng tâmTrong không gian tiền kiếpĐâu cần là những vòng tròn tương giao nơi tiếp điểmMà những vòng tròn phải chính là nhauSống chết bằng nhau từng phân tử địa cầu…Hai vòng tròn đồng tâm chỉ mộtMột mê hoan và một thương đauBuổi nguyện cầu(Phương trình hợp nhất)
Lại có lúc Nguyễn Thị Hoàng mạnh bạo dùng từ “chết”. “Chết” không có nghĩa là mất mát, tiêu vong, hủy diệt. “Chết” ở đây chính là “nỗi chết”, “chết” tức là sống hết mình, sống cùng tận nỗi đời, sống với “cái tuyệt đối”, “chết” là “thú đau thương”, “chết” là để “phục sinh” trong nước mắt, trong khắc khoải của ái tình muôn thuở:
Người đã tới giữa trần gian vắng lặngChân rất êm và lời cũng rất thầmCả tinh cầu rung chuyển nhạc tri ânLòng tử tội ước trăm lần được chết(Ác mộng)Hỡi emTa muốn giết chết và chôn emNếu hồn ta là tháp ngọcNếu đời ta là biển xanhNếu tình ta là thuốc độcLàm sao nhớLàm sao quênNhững phút giờ mật ngọtNói và nghe lời không nói được(Mặt trời vĩnh biệt)Như niềm yêu là nỗi chết sau cùng(Ác mộng)
Khát vọng của tình yêu là tìm kiếm cái tuyệt đối, cái vô cùng, Nguyễn Thị Hoàng đã diễn tả rất đạt điều này nhưng không dừng lại ở sự “lãng mạn” đó. Với cái nhìn xoáy sâu vào bản thể, nhà thơ cật vấn “thần ái tình” về bộ mặt đích thực của tình yêu:
Linh hồn hay thể xácTrong mỗi lần yêu đươngThiên thần hay quỷ ácTrên những làn môi hương(Giới hạn)
Nhận chân tình yêu không chỉ có “mê hoan” mà cả “thương đau”, không chỉ có ngọt bùi mà cả cay đắng, thơ Nguyễn Thị Hoàng có những dòng phản tỉnh đầy “cay nghiệt”, bi phẫn, nói như Nguyễn Thị Hoàng, thơ “đôi khi cũng là tiếng gào la thống hận”:
Ngày tạ thế hạnh phúc tuyệt vờiHung thủ là con ngườiMũi tên độc là sự tầm thườngCánh cung là lời phán quyết xuẩn ngốcNhư sức mạnh của chết chócLà lòng vị kỷ u mêCủa loài gia súc ăn trong máng cámNhững phế phẩm thừa ô tạp trần gianCon mắt phàm chẳng ngó thấy thiên đường(Mặt trời vĩnh biệt)Khi đánh mất lòng tinTa chỉ còn đống rácKhi bỏ quên trái timTa chỉ còn trái nát(Đổ vỡ)
Nhưng không thể sống mà không có tình yêu. Lời thơ nặng nỗi dỗi người, dỗi đời: từ chối cõi sống thừa, trần gian xin trả lại, khi tình yêu đã mất:
Ta sẽ làm con giun trở về với đấtTừ chối cả cuộc đờiTừ chối cõi sống thừaKhuất dấu em(Mặt trời vĩnh biệt)Ngày mai ta bỏ điTrần gian xin trả lạiĐá tảng nào vô triChết một đời rêu ai(Lời rêu)
Diễn tả tình yêu với muôn vàn sắc thái, cung bậc của nó trong đời, có hoan ca, bi ca, đắng cay, đổ vỡ…, nhưng rồi thơ Nguyễn Thị Hoàng hướng đến tiếng nói sau cùng, tiếng nói của trải nghiệm, của “dấn thân”, vượt thoát, tiếng nói của trái tim thương tích nhưng từ tâm, nhân bản, đôn hậu, bao dung. Như Nguyễn Thị Hoàng đã viết trong lời tựa của tập thơ này: Thơ là tiếng im thoát ra từ niềm đau, như giọt máu ứa từ vết thương lặng lẽ:
Ta chép lại tên em bằng nước mắtXin thời gian làm nhớ cũng làm quên(Ảo cảm)Ta sẽ viết tên em bằng nước mắt(Ngộ nhận)Người ơi người ta khóc ra dòng máu(Ác mộng)Suốt đêm dài ta cắn vỡ trăng mêTrong tim ấy tình yêu ta chảy máu(Mơ mòng)Giữ lấy vết thương mà bay lên(Vết thương vĩnh cửu)
Trải nghiệm vết thương giúp con trai hóa ngọc. Những viên ngọc thơ cũng vậy, là kết tinh từ những trải nghiệm nhân sinh, nỗi đời sâu sắc, ý vị. Tuy nhiên, việc “hóa ngọc”, “hóa thơ” nào đâu có dễ, vì nó là sự sinh thành từ cơn đau sáng tạo. Để trải nghiệm được mà không bị “nhấn chìm”, không bị đánh mất mình, chủ thể trải nghiệm phải có ý thức cao về bản thể của mình. Chịu ảnh hưởng của triết học hiện sinh, thơ Nguyễn Thị Hoàng đầy trở trăn về việc tìm kiếm, giữ gìn, khẳng định cái tôi bản thể, tránh nguy cơ vong thân, tha hóa, đánh mất mình:
Ta hiểu rồi, ta sẩy mất đời ta(Mơ mòng)Tôi trở về tôi cũng biến mất tôi(Cuối cùng)Tôi ơi tôi lạ tôi rồiNgàn năm biệt xứ mỗi đời vong thân(Kinh định mệnh)Bỗng một ngày ta trở lại tiền thân(Trở lại)Chiều rồi chiều ta đi tìm kiếm ta(Mùa đông thứ mười bảy)Hỡi taPhải trở về nguyên sơ bản thể(Thể hiện)
Và đây là cái tôi phong phú, giàu có về mặt tâm hồn, cái tôi an nhiên tự tại với chân tâm của mình, qua trải nghiệm nhân thế, cái tôi của con trai hóa ngọc:
Một thân qua khổ nạnThân ấy trải muôn ngànMột tâm qua bão loạnChân tính hoài vô can(Thể nghiệm)
Thơ Nguyễn Thị Hoàng có một nẻo vào cõi Phật, vào Thiền như một lẽ thường tình, trên hành trình hóa giải “khổ nạn” và vượt thoát, thăng hoa về mặt tâm hồn, tâm linh trong cõi nhân sinh. Nhận ra sự vô thường của tạo hóa, sự hữu hạn của đời người trong cõi tạm:
Dưới bàn chân đại nguyện dẫm hư khôngTrên cỏ biếc giọt sương hồng ảo hóa(Vết thương vĩnh cửu)Bởi vì ta là phóng ảnh phù duKhông mà có có mà không lở dở(Trầm ca của gió)Lạ lùng cơn mộng huyễnTrẻ thơ thoắt bạc đầu(Trời đi đâu)
Thơ Nguyễn Thị Hoàng tập trung “thiền quán”, quán tưởng về lẽ “sắc không” theo cái nhìn của nhà Phật: Bởi tất cả đâu phải là sự thật / Có rồi không không vẫn có vô cùng (Vết thương vĩnh cửu). Chữ “không” của nhà Phật không phải dùng để nói về cái không có, mà dùng để nói rằng sự vật có đó, nhưng không có tự tính độc lập, tất cả do duyên hợp mà thành. Ví như thân xác con người hình thành bởi tứ đại: đất, nước, gió, lửa, những thứ đó con người không tự có mà phải vay mượn của tạo hóa và trả lại tạo hóa khi lìa đời. Thơ Nguyễn Thị Hoàng đã diễn tả chữ “không” trừu tượng đó của nhà Phật một cách dễ hiểu, rằng con người không nên nhầm tưởng ở cái có giả hợp, mà phải vượt qua cái giả hợp, vượt qua tham sân si để vào “Không”, tức là vào tận thể tính của sự vật: không vẫn có vô cùng, chỉ hư không là của cải (xin nói thêm, hư không ở đây không hiểu theo nghĩa: không có gì):
Đã tưởng đất này là của tôiĐã tưởng nhà này là của tôiNhưng rồi chẳng phảiKhông của tôi và không của aiChỉ hư không là của cảiNhư gió trong cây xanh mãi bên đờiMây trôi theo vô cùng tận qua trời(Khoảng không đầy)
Đời như đá nén trong tim
Thoát thân khoảnh khắc qua Thiền vào Không
(Nhẫn)
Có thể nói, Mây bay qua trời xưa là tập thơ tinh tuyển một đời của Nguyễn Thị Hoàng, một cây bút văn xuôi nổi tiếng vẫn dành bao tinh lực, tâm huyết cho thơ. Thơ tình, thơ đời, dò thấu những miền thẳm sâu của tâm lý, đậm chất triết lý. Thơ có vần, thơ tự do, có những bài thơ dài, cảm xúc như lớp lớp sóng xô dào dạt, chan chứa. Chất thơ và bút pháp thể hiện có những nét mới, hiện đại. Đạt được kết quả đó là do Nguyễn Thị Hoàng ý thức sâu sắc về sự thai nghén, sinh thành tác phẩm:
Trời đứng nghiêng mình trên đỉnh nonHai chân run rẩy mím môi hờnMột dòng suối thắm trào trong đấtVũ trụ tan tành sấm chớp tuôn(Tác phẩm)
Đó chính là cơn đau sáng tạo: trải nghiệm, chất chứa, bùng nổ, thăng hoa!
NGUYỄN HOÀN
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 317
..........................
(1) Bùi Giáng đười ươi chân kinh, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2012, tr. 305.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét