Nguồn:
Hình như nhắc việc học hành thi cử của Nguyễn Khuyến, người ta hay nhớ cái danh Tam Nguyên mà ít nhớ rằng ông cũng lao đao trường ốc có hạng. Nguyễn Khuyến thi Hương rớt liên tiếp 4 khoa (1852, 1855, 1858, 1861), đến nỗi phải “nghĩ”:
Nghĩ tôi lại gớm cái mình tôiTuổi đã ba mươi kém một thôiBốn khoa hương thí không đâu cảMột mảnh vườn hoang bán sạch rồi.
Mãi năm 1864, ông mới đỗ cử nhân. Tuy đỗ đầu thi Hương, nhưng vào thi Hội ông lại trượt liên tiếp ba khoa, đến năm 1871 mới đỗ thi Hội, thi Ðình (lại đỗ đầu).
Gần 20 năm mới xong “khoa”. Còn “hoạn”, tiếng rằng làm quan từ năm 1871 đến 1884, nhưng trong khoảng ấy Nguyễn Khuyến đã về quê cư tang mẹ mất 3 năm; khoảng 2/3 thời gian tại chức, ông làm học quan hay sử quan chứ không phải quan cai trị.(1)
Đời sống dĩ nhiên ảnh hưởng đến văn chương. So với Nguyễn Công Trứ, thời trước khi xuất chính của Nguyễn Khuyến hình như ít khó khăn hơn, và không kéo dài bằng vì ông đỗ tuy muộn nhưng vẫn sớm hơn Nguyễn Công Trứ; khi ra làm quan, Nguyễn Khuyến lại tương đối ít gặp cảnh bon chen. Hẳn một phần do đó mà thơ ông không có nhiều bài than đời như thơ Nguyễn Công Trứ.
Hai Nguyễn tâm sự riêng khác, mà cảm nghĩ về chuyện nước non cũng khác. Nguyễn Công Trứ làm quan vào thời đất nước còn hoàn toàn độc lập, nên phấn khởi, hào hứng. Nguyễn Khuyến làm quan khi giặc Pháp đã bắt đầu tiến hành chiến tranh xâm lược, nên vừa căm tức giặc hà hiếp vừa chán nản trước sự bất lực của triều đình Huế; sau khi nước mất, căm chán chuyển sang hận giặc cướp tài nguyên bóc lột sức dân và “đau đớn lòng” trước bao nhiêu “điều trông thấy” quanh mình…
Nho sĩ ái quốc buồn chung canh cánh, làm sao vui riêng cho trọn? Dù đi hát quên về nhà như Tú Xương, hay rượu tì tì như Tản Đà, thì lòng vẫn không thực thoải mái. Nguyễn Khuyến cũng có hát nói, nhưng “đôi tiếng trống” không nghe “thùng thùng” rộn rã; trái lại, khi trông thấy con mình hào hứng quá, cụ Tam Nguyên đã không dằn được mà lên tiếng trách: “Sao con đàn hát vẫn say sưa?”.
Người ít chơi, lẽ tự nhiên trong thơ ít thấy cái chơi. Mặt khác, sau khi cáo quan, Nguyễn Khuyến đã sống giữa quê hàng 1/4 thế kỷ nữa mới mất, chắc nhờ đó trong thơ ông ta rất hay thấy quê. Thơ nôm trong mùa cổ điển, một tài thơ lớn bỗng về làng ở rất lâu, ấy như thể là sự xếp đặt của hồn nước để cái nơi sống chính của bao nhiêu thế hệ người Việt nó được vinh danh đích đáng trong thơ Việt! Thử nghĩ: về nội dung, nếu không có những bài thơ quê của Nguyễn Khuyến, thì văn học chữ nôm sẽ thiếu sót đến chừng nào!
Ngoài chứa hình ảnh quê, thơ Nguyễn Khuyến còn đậm đà màu sắc dân tộc ở khuynh hướng “Xuân Hương” lồ lộ trong một số bài.
Ðầy một bụng chữ Tàu mà vẫn không mảy may nguôi lòng Việt là điển hình nho ta ưu tú. Trường hợp nho ta ưu tú này, cái lòng Việt khôn nguôi nó được biểu lộ rõ ràng trong văn chương, làm nên đặc điểm chính của một cõi thơ.
Gần 20 năm mới xong “khoa”. Còn “hoạn”, tiếng rằng làm quan từ năm 1871 đến 1884, nhưng trong khoảng ấy Nguyễn Khuyến đã về quê cư tang mẹ mất 3 năm; khoảng 2/3 thời gian tại chức, ông làm học quan hay sử quan chứ không phải quan cai trị.(1)
Đời sống dĩ nhiên ảnh hưởng đến văn chương. So với Nguyễn Công Trứ, thời trước khi xuất chính của Nguyễn Khuyến hình như ít khó khăn hơn, và không kéo dài bằng vì ông đỗ tuy muộn nhưng vẫn sớm hơn Nguyễn Công Trứ; khi ra làm quan, Nguyễn Khuyến lại tương đối ít gặp cảnh bon chen. Hẳn một phần do đó mà thơ ông không có nhiều bài than đời như thơ Nguyễn Công Trứ.
Hai Nguyễn tâm sự riêng khác, mà cảm nghĩ về chuyện nước non cũng khác. Nguyễn Công Trứ làm quan vào thời đất nước còn hoàn toàn độc lập, nên phấn khởi, hào hứng. Nguyễn Khuyến làm quan khi giặc Pháp đã bắt đầu tiến hành chiến tranh xâm lược, nên vừa căm tức giặc hà hiếp vừa chán nản trước sự bất lực của triều đình Huế; sau khi nước mất, căm chán chuyển sang hận giặc cướp tài nguyên bóc lột sức dân và “đau đớn lòng” trước bao nhiêu “điều trông thấy” quanh mình…
Nho sĩ ái quốc buồn chung canh cánh, làm sao vui riêng cho trọn? Dù đi hát quên về nhà như Tú Xương, hay rượu tì tì như Tản Đà, thì lòng vẫn không thực thoải mái. Nguyễn Khuyến cũng có hát nói, nhưng “đôi tiếng trống” không nghe “thùng thùng” rộn rã; trái lại, khi trông thấy con mình hào hứng quá, cụ Tam Nguyên đã không dằn được mà lên tiếng trách: “Sao con đàn hát vẫn say sưa?”.
Người ít chơi, lẽ tự nhiên trong thơ ít thấy cái chơi. Mặt khác, sau khi cáo quan, Nguyễn Khuyến đã sống giữa quê hàng 1/4 thế kỷ nữa mới mất, chắc nhờ đó trong thơ ông ta rất hay thấy quê. Thơ nôm trong mùa cổ điển, một tài thơ lớn bỗng về làng ở rất lâu, ấy như thể là sự xếp đặt của hồn nước để cái nơi sống chính của bao nhiêu thế hệ người Việt nó được vinh danh đích đáng trong thơ Việt! Thử nghĩ: về nội dung, nếu không có những bài thơ quê của Nguyễn Khuyến, thì văn học chữ nôm sẽ thiếu sót đến chừng nào!
Ngoài chứa hình ảnh quê, thơ Nguyễn Khuyến còn đậm đà màu sắc dân tộc ở khuynh hướng “Xuân Hương” lồ lộ trong một số bài.
Ðầy một bụng chữ Tàu mà vẫn không mảy may nguôi lòng Việt là điển hình nho ta ưu tú. Trường hợp nho ta ưu tú này, cái lòng Việt khôn nguôi nó được biểu lộ rõ ràng trong văn chương, làm nên đặc điểm chính của một cõi thơ.
KHÓC DƯƠNG KHUÊBác Dương thôi đã thôi rồiNước mây man mác ngậm ngùi lòng taNhớ từ thuở đăng khoa ngày trướcVẫn sớm hôm tôi bác cùng nhauKính yêu từ trước đến sauTrong khi gặp gỡ khác đâu duyên trờiCũng có lúc chơi nơi dặm kháchTiếng suối nghe róc rách lưng đèoCó khi từng gác cheo leoThú vui con hát lựa chiều cầm xoangCũng có lúc rượu ngon cùng nhắpChén quỳnh tương ăm ắp bầu xuânCó khi bàn soạn câu vănBiết bao đông bích, điển phần trước sauBuổi dương cửu cùng nhau hoạn nạnPhận đẩu thăng chẳng dám than trờiBác già, tôi cũng già rồiBiết thôi, thôi thế thì thôi mới là!Muốn đi lại tuổi già thêm nhácTrước ba năm gặp bác một lầnCầm tay hỏi hết xa gầnMừng rằng bác hãy tinh thần, chưa canKể tuổi tôi còn hơn tuổi bácTôi lại đau trước bác mấy ngàyLàm sao bác vội về ngayChợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rờiAi chẳng biết chán đời là phảiSao vội vàng đã mải lên tiênRượu ngon không có bạn hiềnKhông mua không phải không tiền không muaCâu thơ nghĩ đắn đo không viếtViết đưa ai, ai biết mà đưaGiường kia treo những hững hờÐàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đànBác chẳng ở, dẫu van chẳng ởTôi tuy thương, lấy nhớ làm thươngTuổi già hạt lệ như sươngHơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan.
Bài “Khóc Dương Khuê” kết hợp một cái hay gặp với một cái ít gặp nơi thơ Nguyễn Khuyến. Cái hay gặp là chuyện làm thơ chữ Hán rồi tự dịch ra chữ nôm. Cái ít gặp là thể ngâm, tức song thất lục bát. Không biết người Tàu như có đọc đến bài “Vãn đồng niên Vân Ðình tiến sĩ Dương thượng thư” thì thấy thế nào, chứ người Việt nghe cụ Nghè Nguyễn ngâm nga khóc cụ Nghè Dương, tưởng có ai mà không buột miệng trầm trồ khúc ngâm hay đáo để!
THU VỊNHTrời thu xanh ngắt mấy tầng caoCần trúc lơ phơ gió hắt hiuNước biếc trông như tầng khói phủSong thưa để mặc bóng trăng vàoMấy chùm trước giậu hoa năm ngoáiMột tiếng trên không ngỗng nước nào?Nhân hứng cũng vừa toan cất bútNghĩ ra lại thẹn với ông Ðào.
Bài thơ thu này của Nguyễn Khuyến có đôi chỗ khó hiểu, may có Xuân Diệu đã tìm hiểu và giảng cho chúng ta. Trời xanh ngắt là ban ngày, sao lại có trăng? Theo Xuân Diệu, đó là vì Nguyễn Khuyến tổng hợp đêm ngày để khái quát cảnh thu. Cần trúc sao lại lơ phơ? Vì đó không phải cần câu, mà là “cây tre (…) còn non, ít lá, thanh mảnh (…) như cái cần câu” (2).
Vẫn theo Xuân Diệu, trong ba bài thơ thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến, bài này “mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao (…) Hồn (…) của cảnh thu (…) nằm ở trong bầu trời, ở trên trời (…) Trời thu rất xanh rất cao tỏa xuống cả cảnh vật”. Tại sao Nguyễn Khuyến thẹn với Ðào Tiềm? Vì khi ấy ông chưa thôi làm quan, hay vì ông đã trót làm quan lâu hơn Ðào Tiềm?
TRỞ VỀ VƯỜN CŨVườn Bùi chốn cũ!Bốn mươi năm, lụ khụ lại về đâyTrông ngoài sân đua nở mấy chồi câyThú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế!Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghếÔn công rượu nhạt chuốc chiều xuânNgọn gió xuân ngảnh lại lệ đầm khănTính thương hải tang điền qua mấy lớpNgươi chớ giận Lỗ hầu chẳng gặpNhư lơ phơ tóc trắng lại làm chi?Muốn về sao chẳng về đi!.
Ðời làm quan của Nguyễn Khuyến tương đối ngắn: từ 1871 đến 1884, chỉ có 14 năm. Vậy “bốn mươi năm” đây không phải tính từ lúc ông xa quê đi làm quan, xem lại tiểu sử thì thấy đó là từ ngày ông theo cha mẹ về “xứ Vườn Bùi” lần thứ nhất (3). Bài thơ này diễn nôm bài “Bùi viên cựu trạch ca” cùng tác giả. Nguyễn Khuyến nổi tiếng ưa làm thơ chữ Hán rồi dịch qua tiếng Việt (biết đâu thỉnh thoảng ông có làm ngược lại mà ta không biết!). Ông yêu tiếng mẹ đẻ, cái ấy hiển nhiên. Còn những bài thơ chữ Hán, ông làm là để khỏi quên vốn liếng của một Tam Nguyên đó chăng? “Ngươi” tiếc chẳng gặp Lỗ hầu, thế là “ngươi” chê đương kim thánh thượng! (4)
THU ĐIẾUAo thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu bé tẻo teoSóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió sẽ đưa vèoTầng mây lơ lửng trời xanh ngắtNgõ trúc quanh co khách vắng teoTựa gối, buông cần lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hồi thế kỷ XV, chắc do sáng tác trong thời gian Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Quốc âm thi tập có chứa rau muống, mồng tơi, dọc mùng… Đến thế kỷ XIX, chắc nhờ Nguyễn Khuyến trở lại vườn Bùi ở suốt 1/4 thế kỷ, văn học Việt Nam cổ điển bỗng có một số bài thơ chứa mùa thu thôn quê Bắc bộ, ao, cá, gà, cải, cà, bầu, mướp, trầu, chỗ lội, đàn bà vén quần, con cúi, miếu ông Cuội, con trâu “sáng tai họ, điếc tai cày”, lợn con, nếp cái, chiếc lá (thung thăng), cá khe, chim núi, trai, cò, bèo, anh kình, chú chuối… Ờ, nhưng một số thi nhân khác cũng có thời về làng, mà thơ họ vắng cảnh vật xóm làng… Sực nhớ, khi họ ở Thăng Long, lúc cầm bút gieo vần họ cũng thường để Thăng Long bị vắng! Xưa kia, thơ tiếng Việt chứa hình ảnh đất Việt không có mấy ai làm đâu.
BÀI DI CHÚCKém hai tuổi xuân đầy chín chụcSố thầy sinh phải lúc dương cùng (5)Ðức thầy đã mỏng mòng mongTuổi thầy lại thọ hơn ông cụ thầyHọc chẳng có rằng hay chi cảCưỡi đầu người kể đã ba phenTuổi thầy tuổi của gia tiênCho nên thầy được hưởng niên lâu ngàyẤy thuở trước ông mày cũng đỗHóa bây giờ cho bố làm nênƠn vua chửa chút báo đềnCúi trông thẹn đất, ngửa lên thẹn trờiSống không để tiếng đời ta thánChết lại về quê quán hương thônMới hay trăm sự vuông trònSống lâu đã trải, chết chôn chờ gìÐồ khâm liệm chớ nề xấu tốtKín chân tay đầu gót thì thôiCỗ đừng to lắm con ơiHễ ai chạy lại, khuyên mời người ănTế đừng có viết văn mà đọcTrướng đối đừng gấm vóc làm chiMinh tinh con cũng bỏ điMời quan đề chủ, con thì không nênMôn sinh chớ bỏ tiền đặt giấyBạn của thầy cũng vậy mà thôiKhách quen chớ viết thiếp mờiAi đưa lễ phúng con thời chớ thuChẳng qua nợ để cho người sốngChết đi rồi còn ngóng vào đâuLại mang cái tiếng to đầuKhi nay bày biện, khi sau chê bànCờ biển của vua ban ngày trướcLúc đưa thầy, con rước đầu tiênLại thuê một lũ thợ kènVừa đi vừa thổi, mỗi bên dăm thằngViệc tống táng lăng nhăng qua quítCúng cho thầy một ít rượu hoaÐề vào mấy chữ trong biaRằng: “Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.
Đây cũng là Nguyễn Khuyến dịch thơ chữ Hán của mình. Bản dịch làm theo thể ngâm, như bài “Khóc Dương Khuê”. Khóc bạn, ngâm, dặn con khóc mình, ngâm, à, cứ khóc thì ngâm! Ðọc “di chúc” thấy hay, bỗng nhớ một lời khen viết đã lâu lắm. Hồi tiền chiến, Thùy Thiên bảo: “Văn ông Yên Ðổ dẫu hay cũng chỉ có cái giọng kiêu” (6). “Ông” có kiêu không, kiêu những chuyện gì, đọc kỹ lời dặn con bằng thơ này ắt sẽ rõ. Văn cụ Tam Nguyên dẫu có kiêu thì cũng vẫn hay!
BẠN TỚI CHƠI NHÀChẳng mấy khi nay bác tới nhàTrẻ thời đi vắng, chợ thời xaAo sâu nước cả, khôn mò cáVườn rộng rào thưa, khó đuổi gàCải đã tàn cây, cà chửa nụBầu vừa rụng rốn, mướp đương hoaÐầu trò tiếp khách, trầu không cóBác đến chơi đây, ta với ta!
Nhớ bài “Khách chí” của Ðỗ Phủ:
Bốn bề nước trắng lụt toTrông ra thường chỉ thấy cò về chơiNgõ vào khách vắng quét lườiCổng tre nay mới mở mời bác quaBữa xoàng ngặt nỗi chợ xaRượu ngon gọi chút men nhà nấu thôiCó ông hàng xóm bạn chơiBác cho em gọi thêm vui tiệc này”(Thu Tứ dịch)
Hai bài đều hay, nhưng thơ Nguyễn có chút hóm hỉnh, còn thơ Ðỗ thì không.
ĐỐNG ÔNG CUỘI“Ðầu đường ngang có một chỗ lộiCó miếu ông Cuội cao vòi vọiÐàn bà đến đó vén quần lênChỗ thời đến háng, chỗ đến gốiÔng Cuội ngồi trông mỉm miệng cười:“Cái gì trông trắng như con cúi?”Vội vàng khép nép đứng liền thưa:“Trót dại hở hang xin xá tội!”Ông rằng: “Mày cũng chẳng tội gìChỉ tội làm ông cứng con buộiMuốn tốt mày về bảo làng mày:Ra đây ông cho giống ông Cuội”Cho nên làng ấy sinh ra ngườiSinh ra rặt những thằng nói dối.
bụng đầy lời thánh chữ hiền, nhà nho ấy lại đi cầm bút nho mà viết ra lời ấy chữ ấy vậy sao? Vậy thì sao? Nguyễn Khuyến Tam Nguyên chẳng qua là Nguyễn Khuyến vỏ. Còn cái ông Nguyễn Khuyến ruột, ông ấy vẫn là một người Việt Nam chính cống. Xưa kia nếu thực là người Việt, không ai kiêng kỵ thứ lời ấy, chữ ấy đâu. Ðối với chuyện trai gái ăn nằm, các cụ nho ta vốn vẫn giữ cái nhìn cởi mở, hồn nhiên, chứ không có cái lối nghiêm nghiêm trang trang, quay mặt nhắm mắt như các nho Tàu đâu (7). Nho bên Tàu làm vô số thơ mà đố ai tìm được một bài có “âm hộ” hay “dương vật”. Nho bên ta làm ít thơ hơn mà “buội” hiện ra không phải chỉ một lần này. Người Việt vốn ít lý luận lôi thôi, nhưng về riêng cái chuyện trai trai gái gái, tổ tiên ta có để lại lời: “Ai dám bảo chữ dâm là bậy / Không có dâm sao có nẩy ra hiền”.
HỘI TÂYKìa hội Thăng Bình tiếng pháo reoBao nhiêu cờ kéo với đèn treoBà quan tênh nghếch xem bơi trảiThằng bé lom khom nghé hát chèoCậy sức cây đu nhiều chị nhúnTham tiền cột mỡ lắm anh leoKhen ai khéo vẽ trò vui thếVui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu.
Hội Thăng Bình là hội mừng ngày Cách mạng Pháp 14-7. Hội ấy dĩ nhiên mới ra đời sau ngày nước Việt Nam bỗng có… mẹ (!!!). Ngày lễ lớn ở nước mẹ, dân nước con cũng được tha hồ vui chơi. Dân, ở đâu cũng thế, đa số biết gì vinh nhục. Dân càng “vui thế bao nhiêu” thì “cha mẹ dân” như Nguyễn Khuyến càng thấy “nhục bấy nhiêu”.
TỰ TRÀOTa cũng chẳng giàu, cũng chẳng sangChẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàngCờ đang dở cuộc, không còn nướcBạc chửa thâu canh, đã chạy làngMở miệng nói ra gàn bát sáchMềm môi chén mãi tít cung thangNghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ!Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!
“Bảng vàng”, “bia xanh”, “cưỡi đầu người (…) ba phen”, sang để đâu cho hết! “Cờ đang dở cuộc (…) / Bạc chửa thâu canh (…)”, hai cái câu này, có phải Nguyễn Khuyến là người đầu tiên đưa ra không nhỉ? Dù sao, sau Nguyễn Khuyến thỉnh thoảng ta lại gặp nó ở chỗ nọ chỗ kia…
ANH GIẢ ĐIẾCTrong thiên hạ có anh giả điếcKhéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!Chẳng ai ngờ “sáng tai họ, điếc tai cày”Lối điếc ấy sau này em muốn họcTọa trung đàm tiếu, nhân như mộcDạ lý phan viên, nhĩ tự hầu (8)Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầuKhi chè sen năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câuTỉnh một chốc, lâu lâu rồi lại điếcÐiếc như thế ai không muốn điếc!Ðiếc như anh dễ bắt chước ru màHỏi anh, anh cứ ậm à!
Dùng tục ngữ trong thơ, tại sao không? Thơ chuộng súc tích, mà tục ngữ thì rất súc tích. Hơn nữa, cái câu tục ngữ rất Việt ấy nó lại giúp “chữa” bớt sự có mặt của hai câu tiếng Tàu trong bài thơ tiếng Việt. “Anh giả điếc” tất nhiên không phải lười biếng như trâu. Chẳng qua trong buổi nước nhà mất độc lập, làm việc nhiều khi là làm những việc không ra gì, nên anh mới “khéo ngơ ngơ ngác ngác” để khỏi bị vấy tay…
THU ẨMNăm gian nhà cỏ thấp le teNgõ tối đêm sâu đóm lập lòeLưng giậu phất phơ màu khói nhạtLàn ao lóng lánh bóng trăng loeDa trời ai nhuộm mà xanh ngắt?Mắt lão không vầy cũng đỏ hoeRượu tiếng rằng hay, hay chả mấyÐộ năm ba chén đã say nhè”.
Thu, ẩm đêm tốt, ẩm ngày cũng tốt. “Bán dạ tam bôi”, rồi “bán nhật tam bôi”, “thu đêm chưa phỉ lại thu ngày” (9), cho nên mới trời “xanh ngắt” tiếp “đêm sâu”… “Rượu hay không bằng hay rượu”. Nhưng có thực là “lão” rượu không hay? “Say nhè”, sao đóm lập lòe cũng thấy, khói phất phơ cũng thấy, bóng trăng loe dưới ao cũng thấy?! Chữ hay (nên đỗ đầu ba lần), rượu hay (nên rượu mà vẫn tỉnh), thơ hay (ai cũng biết). Ối, cụ Tam Nguyên Ba Hay!
LỤT HỎI THĂM BẠNAi lên nhắn hỏi bác Châu CầuLụt lội năm nay bác ở đâu?Mấy ổ lợn con, rày lớn bé?Vài gian nếp cái, ngập nông sâu?Phận thua suy tính, càng thêm thiệtTuổi cả chơi bời, họa sống lâuEm cũng chẳng no, mà chẳng đóiThung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu.
“Bác Châu Cầu” là Bùi Văn Quế ở Hà Nam, đỗ cử nhân cùng khoa với Nguyễn Khuyến, làm quan đến tuần phủ, khi về nghỉ hưu lại kinh doanh nuôi lợn và nấu rượu. Ðành “sĩ kiêm bách nghệ”, tức nhà nho làm nghề gì cũng được, mà làm giàu cách chân chính thì Khổng Tử không hề bài bác, nhưng liệu sống ở đời có phải tích cực đến thế này chăng? Lụt lội “bác” phờ râu lo lợn lo nếp, còn “em” được thể nước trắng đồng, đưa luôn “chiếc lá” lên đồng mà “thung thăng”… “Nên chăng nghĩ lại kẻo nhầm” (10), “bác” ơi.
HOÀI CỔNghĩ chuyện đời xưa cũng nực cườiSự đời đến thế, thế thời thôi!Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặmNước độc ma thiêng mấy vạn ngườiKhoét rỗng ruột gan trời đất cảPhá tung phên giậu hạ di rồiThôi thôi đến thế thời thôi nhỉMây trắng về đâu nước chảy xuôi.
Dĩ nhiên thực là “nghĩ chuyện đời nay cũng nực… khóc”. Nguyễn Khuyến ức giặc Pháp bắt người Việt “khoét rỗng ruột gan” đất Việt cho chúng tha hồ chở tài nguyên về làm giàu cho nước của chúng đó. “Thôi thôi đến thế thời” “tôi” phải thôi làm quan, mà làm “mây trắng” trôi về… vườn Bùi (11).
MỘT THOÁNG XUÂN HƯƠNG!
“Ôm tiu, gối mõ ngáy khò khòGió lọt phòng thiền mát mẻ côThen cửa từ bi gài lỏng cánhNén hương tế độ đốt đầy lòCá khe lắng kệ, đầu hi hópChim núi nghe kinh, cổ gật gùNhắn bảo chúng sinh như muốn độSẽ quì, sẽ niệm, sẽ “nam mô!(“Bỡn cô tiểu ngủ ngày”)Trai sao chẳng biết tính con còMày hở hang chi nó mổ choÐã cậy dày mu không khép kínCho nên dài mỏ chực ăn toThôi về bãi bể cho êm áiÐể mặc bên sông nó gật gùCò trắng dẫu khôn đành gác mỏTrai già chờ lúc lại phơi mu(“Cò mổ trai”)Con tạo ghen chi gái má hồngMà đem nước đến vỗ tầm vôngGió lùa cửa cống bèo man mácTrăng xỏ buồng trai bóng phập phồngNhững sợ anh kình rình dưới rốnLại lo chú chuối lẩn bên hôngQuản chi điểm phấn trang hồng nữaChỉ biết nơi sâu với chốn nông(“Gái góa than lụt”)Thu vén giang sơn một cắp trònNghìn thu sương tuyết vẫn không mònBiết chăng chỉ có ông Hà báMỉm mép cười thầm với nước non(“Gái rửa bờ sông”)
Tưởng bất cứ ai ngắm nghía bức chân dung Nguyễn Khuyến phổ biến (12), trông đôi mắt như đang mỉm cười rất hóm hỉnh ấy, cũng đoán người trong ảnh có tính thích khôi hài. Ðại trí thức, quan lớn, mà làm thơ “bỡn cô tiểu ngủ ngày” … tỉnh bơ, làm rồi xưng đích danh chứ không che tên giấu họ! Hoan hô nhà nho dân tộc!
ĐĨ CẦU NÔMThiên hạ bao giờ cho hết đĩTrời sinh ra cũng để mà chơiDễ mấy khi làm đĩ gặp thờiChơi thủng trống, long dùi âu mới thíchÐĩ bao tử càng chơi càng lịchTha hồ cho khúc khích chị em cườiNgười ba đấng của ba loàiNếu những như ai thì đĩ mốcÐĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độcKhá khen thay làm đĩ có tôngKhắp giang hồ chẳng chốn nào khôngSuốt Nam, Bắc, Tây, Ðông đều biết tiếngÐĩ mười phương chơi cho đủ chínCòn một phương để nhịn lấy chồngChém cha cái kiếp đào hồngBạn với kẻ anh hùng cho đứng sốVợ bợm, chồng quan, danh phận đóMai sau ngày giỗ có văn nômCha đời con đĩ cầu Nôm”.
Tục truyền “con đĩ cầu Nôm” là cô Tư Hồng (13). “Đĩ mà có (…) có (…) có (…) có (…)”, trách sao cụ Tam Nguyên chẳng cao hứng “khá khen”. Bụng đầy chữ nho, nhưng cụ xổ nôm thì “con đĩ” nào cũng chỉ có nước bưng tai!
Thu Tứ
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 565
..........
(1) Theo Nguyễn Khuyến – tác phẩm, Hội Văn học – Nghệ thuật Hà Nam Ninh, Nxb. Khoa học Xã hội, 1984.
(2) Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb. Văn học, 1987.
(3) Nguyễn Khuyến – tác phẩm: “Năm 1843, ông thân sinh Nguyễn Khuyến mới đưa vợ con từ quê ngoại Hoàng Xá về xứ Vườn Bùi (thuộc làng Vị Hạ) (…) Kể từ đó cho đến khi Nguyễn Khuyến cáo quan về (1884), nhà ông ở đấy đã bốn mươi năm có lẻ…”. “Xứ” nhỏ hơn làng, có phải xứ là xóm?
(4) Ôn công: Tư Mã Quang, khi về ở ẩn ưa uống rượu giải sầu. Lỗ hầu: Lỗ Bình công, người Mạnh Tử muốn gặp để giúp mà không gặp được.
(5) NK thọ 75 tuổi. Xưa kia ta hay nói tăng tuổi thọ?
(6) Tạp chí Tri Tân (1941-1945), Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
(7) Xem “Có thần và thần” và “Oai như gái Việt” của TT.
(8) Ngồi giữa chỗ người cười nói thì ngây như gỗ / Ban đêm leo tường lại nhanh như khỉ.
(9) Thơ Hồ Xuân Hương, bài “Vịnh cái quạt”: “Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày”.
(10) Câu chót trong bài “Ðời đáng chán” của Tản Ðà.
(11) Khi cáo quan vì không vui về triều chính, nho sĩ hay nhắc đến “bạch vân”, như trong bài “Tống biệt” của Vương Duy.
(12) Bức chân dung trong đó NK tay cầm chén rượu.
(13) Nguyễn Khuyến – tác phẩm: “Tên thật là Trần Thị Lan quê (…) lấy một khách buôn giàu là chú Hồng. Tên này chết (…) lấy tên cố đạo phá giới là Croibier Hugust (…) Nhờ uy thế chồng, Tư Hồng được thầu phá nốt những mảng tường thành Hà Nội lấy gạch xây nhà cho thuê (…) trở nên giàu có. Nhân Trung kỳ có lụt, Tư Hồng buôn gạo chở lậu thuế vào bán, bị bắt, liền nói dối là đem phát chẩn. Do đó thị không những không bị tội, mà còn được thực dân đề nghị triều Nguyễn phong cho thị hàm “Tứ phẩm cung nhân”, và cho cả bố thị hàm “Hàn lâm thị độc”. Tư Hồng về làng ăn khao linh đình, có người mừng đôi câu đối: “Một đạo sắc phong hàm cụ lớn / Trăm năm danh giá của bà to””.
(1) Theo Nguyễn Khuyến – tác phẩm, Hội Văn học – Nghệ thuật Hà Nam Ninh, Nxb. Khoa học Xã hội, 1984.
(2) Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb. Văn học, 1987.
(3) Nguyễn Khuyến – tác phẩm: “Năm 1843, ông thân sinh Nguyễn Khuyến mới đưa vợ con từ quê ngoại Hoàng Xá về xứ Vườn Bùi (thuộc làng Vị Hạ) (…) Kể từ đó cho đến khi Nguyễn Khuyến cáo quan về (1884), nhà ông ở đấy đã bốn mươi năm có lẻ…”. “Xứ” nhỏ hơn làng, có phải xứ là xóm?
(4) Ôn công: Tư Mã Quang, khi về ở ẩn ưa uống rượu giải sầu. Lỗ hầu: Lỗ Bình công, người Mạnh Tử muốn gặp để giúp mà không gặp được.
(5) NK thọ 75 tuổi. Xưa kia ta hay nói tăng tuổi thọ?
(6) Tạp chí Tri Tân (1941-1945), Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
(7) Xem “Có thần và thần” và “Oai như gái Việt” của TT.
(8) Ngồi giữa chỗ người cười nói thì ngây như gỗ / Ban đêm leo tường lại nhanh như khỉ.
(9) Thơ Hồ Xuân Hương, bài “Vịnh cái quạt”: “Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày”.
(10) Câu chót trong bài “Ðời đáng chán” của Tản Ðà.
(11) Khi cáo quan vì không vui về triều chính, nho sĩ hay nhắc đến “bạch vân”, như trong bài “Tống biệt” của Vương Duy.
(12) Bức chân dung trong đó NK tay cầm chén rượu.
(13) Nguyễn Khuyến – tác phẩm: “Tên thật là Trần Thị Lan quê (…) lấy một khách buôn giàu là chú Hồng. Tên này chết (…) lấy tên cố đạo phá giới là Croibier Hugust (…) Nhờ uy thế chồng, Tư Hồng được thầu phá nốt những mảng tường thành Hà Nội lấy gạch xây nhà cho thuê (…) trở nên giàu có. Nhân Trung kỳ có lụt, Tư Hồng buôn gạo chở lậu thuế vào bán, bị bắt, liền nói dối là đem phát chẩn. Do đó thị không những không bị tội, mà còn được thực dân đề nghị triều Nguyễn phong cho thị hàm “Tứ phẩm cung nhân”, và cho cả bố thị hàm “Hàn lâm thị độc”. Tư Hồng về làng ăn khao linh đình, có người mừng đôi câu đối: “Một đạo sắc phong hàm cụ lớn / Trăm năm danh giá của bà to””.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét