Anh Phạm Thành, trưởng nam của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, đã chép tiểu sử của ông: "Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống âm nhạc, cả hai thân sinh ra ông đều chơi nhạc cổ truyền. Thân phụ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được 2 người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long. Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh.
Ông được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV.
Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác vào năm 1947, khi 18 tuổi, với tác phẩm đầu tay là ca khúc "Ra đi khi trời vừa sáng". Năm 1951, ông và gia đình chuyển vào miền Nam. Với các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng ông thành lập Ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Trong thập niên 1950, ông đã viết những tác phẩm thành công và để đời như "Ly rượu mừng", "Xuân tha hương", "Thủa ban đầu", "Tiếng dân chài" v.v..
Đáng kể nhất là trường ca bất hủ "Hội trùng dương" mà ông viết về đất nước Việt Nam hoa gấm, qua ba bài ca nói về con sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long. Theo như lời ông đã nói với gia đình, trường ca này đã phải tốn mất 4 năm để hoàn tất.
Một sáng tác lãng mạn và để đời thứ hai trong thập niên 1950 đã gắn liền vào tên tuổi Phạm Đình Chương: đó là ca khúc bất hủ phổ thơ Đinh Hùng nhan đề "Mộng dưới hoa". Riêng nói về "Mộng dưới hoa", ca khúc này đã theo năm tháng để trở thành một trong những bài tình ca được ưa chuộng và hát nhiều nhất của nhạc Việt.
Trong thập niên 1960, ông đã sáng tác một loạt ca khúc phổ thơ rất thành công và được yêu chuộng như "Nửa hồn thương đau", "Ngợi ca tình yêu" và "Đêm màu hồng" (thơ Thanh Tâm Tuyền), "Khi cuộc tình đã chết" (Du Tử Lê), "Người đi qua đời tôi" (Trần Dạ Từ) và nổi bật nhất là ca khúc "Đôi mắt người Sơn Tây" (Quang Dũng).
Từ đó, Phạm Đình Chương thường được cho là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Giai đoạn này cũng là lúc ông lập ra phòng trà tên gọi Đêm Màu Hồng và với ban hợp ca Thăng Long, đã biến nơi này thành chỗ hội tụ của các văn nghệ sĩ đương thời.
Sau năm 1975, Phạm Đình Chương sang định cư tại California, Hoa Kỳ vào năm 1979. Ông ở tại quận Cam cùng gia đình từ đó. Trong khoảng thời gian sống tại Hoa Kỳ, ông đã viết một số ca khúc cuối cùng gồm những tác phẩm phổ thơ như "Đêm nhớ trăng Sài gòn", "Quê hương là người đó", "Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển" (phổ thơ Du Tử Lê), "Hạt bụi nào bay qua" (Thái Tú Hạp) v.v.. Ngoài ra, ông đã hoạt động rất thành công qua những buổi trình diễn tại các cộng đồng người Việt trên toàn thế giới.
Vào mùa hè năm 1991, ông lâm bệnh và mất vào ngày 22 tháng 8 năm 1991 tại quận Cam, California ở tuổi 62. Theo như gia đình ông kể lại, sau khi người anh của ông là nghệ sĩ lão thành Hoài Trung qua đời 8 năm sau đó, năm 1998. Vào một buổi sáng nắng ấm tại miền Nam Cali, gia đình ông đã đem tro cốt của hai ông rải ngoài biển như trong một ca khúc ông viết trong thời gian cuối cùng có nhan đề “Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển” phổ từ thơ thi sĩ Du Tử Lê".
Ca khúc “Đêm cuối cùng” sáng tác vào năm 1961 mở đầu với những giai điệu buồn thê thiết, nhịp Boston chậm rãi, là những lời đôi tình nhân trao cho nhau trong đêm cuối cùng còn được ở bên nhau. Không rời tay nhau khi cùng bước bên nhau trên phố đêm giá lạnh, môi vẫn gượng cười trước giây phút chia tay sẽ để lại cả một trời nhớ thương, hai kẻ yêu nhau vẫn giữ niềm tin dù có bao cách trở, tình yêu sẽ vẫn mãi thắm thiết:
Ông được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV.
Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác vào năm 1947, khi 18 tuổi, với tác phẩm đầu tay là ca khúc "Ra đi khi trời vừa sáng". Năm 1951, ông và gia đình chuyển vào miền Nam. Với các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng ông thành lập Ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Trong thập niên 1950, ông đã viết những tác phẩm thành công và để đời như "Ly rượu mừng", "Xuân tha hương", "Thủa ban đầu", "Tiếng dân chài" v.v..
Đáng kể nhất là trường ca bất hủ "Hội trùng dương" mà ông viết về đất nước Việt Nam hoa gấm, qua ba bài ca nói về con sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long. Theo như lời ông đã nói với gia đình, trường ca này đã phải tốn mất 4 năm để hoàn tất.
Một sáng tác lãng mạn và để đời thứ hai trong thập niên 1950 đã gắn liền vào tên tuổi Phạm Đình Chương: đó là ca khúc bất hủ phổ thơ Đinh Hùng nhan đề "Mộng dưới hoa". Riêng nói về "Mộng dưới hoa", ca khúc này đã theo năm tháng để trở thành một trong những bài tình ca được ưa chuộng và hát nhiều nhất của nhạc Việt.
Trong thập niên 1960, ông đã sáng tác một loạt ca khúc phổ thơ rất thành công và được yêu chuộng như "Nửa hồn thương đau", "Ngợi ca tình yêu" và "Đêm màu hồng" (thơ Thanh Tâm Tuyền), "Khi cuộc tình đã chết" (Du Tử Lê), "Người đi qua đời tôi" (Trần Dạ Từ) và nổi bật nhất là ca khúc "Đôi mắt người Sơn Tây" (Quang Dũng).
Từ đó, Phạm Đình Chương thường được cho là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Giai đoạn này cũng là lúc ông lập ra phòng trà tên gọi Đêm Màu Hồng và với ban hợp ca Thăng Long, đã biến nơi này thành chỗ hội tụ của các văn nghệ sĩ đương thời.
Sau năm 1975, Phạm Đình Chương sang định cư tại California, Hoa Kỳ vào năm 1979. Ông ở tại quận Cam cùng gia đình từ đó. Trong khoảng thời gian sống tại Hoa Kỳ, ông đã viết một số ca khúc cuối cùng gồm những tác phẩm phổ thơ như "Đêm nhớ trăng Sài gòn", "Quê hương là người đó", "Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển" (phổ thơ Du Tử Lê), "Hạt bụi nào bay qua" (Thái Tú Hạp) v.v.. Ngoài ra, ông đã hoạt động rất thành công qua những buổi trình diễn tại các cộng đồng người Việt trên toàn thế giới.
Vào mùa hè năm 1991, ông lâm bệnh và mất vào ngày 22 tháng 8 năm 1991 tại quận Cam, California ở tuổi 62. Theo như gia đình ông kể lại, sau khi người anh của ông là nghệ sĩ lão thành Hoài Trung qua đời 8 năm sau đó, năm 1998. Vào một buổi sáng nắng ấm tại miền Nam Cali, gia đình ông đã đem tro cốt của hai ông rải ngoài biển như trong một ca khúc ông viết trong thời gian cuối cùng có nhan đề “Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển” phổ từ thơ thi sĩ Du Tử Lê".
Ca khúc “Đêm cuối cùng” sáng tác vào năm 1961 mở đầu với những giai điệu buồn thê thiết, nhịp Boston chậm rãi, là những lời đôi tình nhân trao cho nhau trong đêm cuối cùng còn được ở bên nhau. Không rời tay nhau khi cùng bước bên nhau trên phố đêm giá lạnh, môi vẫn gượng cười trước giây phút chia tay sẽ để lại cả một trời nhớ thương, hai kẻ yêu nhau vẫn giữ niềm tin dù có bao cách trở, tình yêu sẽ vẫn mãi thắm thiết:
Đêm nay đêm cuối cùng gần nhauLệ buồn rưng rưng, lời hát thương đauNhịp bước bâng khuâng ngoài phố lạnh.Giọt sầu rơi rớt hồn phiêu linh
Nắm tay không rờiCố hé run run môi cườiLúc chia tay bên trời tiếc thương.Em ơi đêm cuối cùng gần nhau
Hẹn rằng một ngày mai nối mộng ban đầu
Em ơi đừng khóc sầu chia lyVì lệ tuôn rơi làm héo xuân thì.
Huỳnh Duy Lộc
*
Nguồn:
https://triviet.news/doi-song/am-nhac/pham-dinh-chuong-va-dem-cuoi-cung/?fbcli
Nguồn:
https://triviet.news/doi-song/am-nhac/pham-dinh-chuong-va-dem-cuoi-cung/?fbcli
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét