Đây nói vào giữa thời Đông Hán, nơi Ích Châu có một gia đình họ Tư Mã chuyên về nghề làm tương chao (tiếng Hoa goị là lạc chíu chương) sanh được một người con trai, lấy nghề gia truyền mà đặt tên là Tư Mã Trọng Tương lầu thông kinh sử học một biết mười, những sách của trăm nhà (Bách Gia Chư Tử) có nhiều cuốn không cần đọc cũng đã biết, có pho có cuốn chỉ cần nhìn qua cái bìa sách là đã lầu thông trong trang ruột rồi, nhưng tiếc là thầy giáo chấm thi Cống Nghè hồi đó trình độ thấp quá, không có trình độ để đọc văn bài cuà Trọng Tương nên thi khoá nào là y như rằng trượt vỏ chuối khoa ấy, khi ở vào tuổi “ngũ thập nhi bất hoặc” thì Tư Mã Trọng Tương vừa uống trà, vừa nhai phá xa để than trời trách đất, vừa chán ngán vừa văng tục cho thời thế vừa thương thân phận của mình, cũng ngay lúc đó thì du thần (là những vị thần ở không đi lang thang nghe ngóng xem có ai chê ai chửi gì trời đất để làm rắppo trình lên trời hoặc trình xuống âm phủ), thế là Ngọc Hoàng Thượng Đế biết được bèn soạn một ngự chiếu giao tận tay cho vua Thập Điện Diêm La là mời cho bằng được hồn cuả Tư Mã Trọng Tương xuống địa phủ hỏi xem tiên sinh muốn gì? Sau đó thì có cuộc họp giao ban giữa vua Thập Điện Diêm La và Tư Mã Trọng Tương.
Nghe đương sự nói sơ sơ về con đường hoạn lộ và những bộ sách kinh thư đã đọc, bèn bỏ mũ bình thiên ra để trên bàn và quỳ mọp hai chân xuống đất lạy như tế sao. Tư Mã Trọng Tương để cho vua Thập Điện lạy mỏi cả hai tay mỏi cả hai chân mới giả vờ đứng lên đỡ dậy không cho ngài lạy nữa. Nhà vua ngồi vào ghế rồi hàn huyên với Tư Mã như sau:
- Chả dấu gì xính xáng, vua trên Trời tức là Ngọc Hoàng Thượng Đế thì đa số đều có căn tu, và có trình độ văn hoá cao cỡ Sơ Học Yếu Lược. Ngoài ra còn có các vì Tiên Ông Tiên Bà Tiên Cô Tiên Cậu tốt nghiệp lớp ba trường làng giúp dật. Hoặc có vấn đề gì sự cố khó khăn thì có Đức Phật Như Lai đứng ra cáng đáng giải quyết giùm, nên mọi chuyện đều hanh thông, còn dưới điạ phủ A Tỳ (tức là Âm Phủ Luyện Ngục) này thì tự quản lý lấy, thú thực vơí xính xáng nói ra thực đáng lấy làm xấu hổ, dưới này chỉ có năm hạng người:
1/ Giai cấp Đầu Trâu là binh tốt, thiên lôi sai đâu uýnh đó.
2/ Giai cấp kế tiếp là Mặt Ngựa tương đương với chức Quản Đội, là cán bộ chính xử lý mọi chuyện hàng ngày ở dưới này.
3/Giai cấp Phán Quan hay Phán Sự là chuyên lo về hồ sơ giấy tờ hành chánh, lý lịch trích ngang cuả các phạm tội nhân, góp ý với Diêm Vương để phá án.
4/ Giai cấp Diêm Vương, ở dưới này có Chín Tầng Địa Ngục thì có chín vị Vương cai quản, mỗi vị một từng, còn một vị nữa thì giữ chức vụ uỷ vịên thường trực, xử lý ba cái chuyện ruồi bu, kiến đậu, là bổn Vương tào lao cố đế đây.
5/ Là các phạm tội nhân tuỳ theo tội nặng hay nhẹ lần lượt qua các cửa ải, từng điạ ngục rồi sau đó được đưa đi ăn ăn cháo lú (lạp chúc) rồi đầu thai làm súc sanh nơi cõi thế để thiên hạ mần thịt.
Theo như lề lối làm việc từ xưa cho tới bây giờ tại Âm cảnh này, thì cứ ba năm mỗi người tự động thăng lên một trật, thăng trật chứ không tăng lương cứ chín năm thì chuyển ngạch, cứ hai mươi bấy năm là plafont cuả ngạch Phán Sự, ai muốn làm Diêm Vương thì đăng ký, ai muốn về hưu thì thôi, thành ra từ Ngưu Đầu, Mã Diện cho tới Phán Quan, Diêm Vương thì một chữ bẻ làm đôi cũng không ai biết là chữ Tác hay chữ Tộ, với nữa dướí này không có Tivi, hay Báo Giấy hay báo Điện Tử và cũng chỉ cần phán một câu xanh dờn duy nhất “cho phạm nhân đi đầu thai làm Trâu, Bò, Lừa, Ngựa, Heo, Gà là xong.... và cái con đường sắt tàu lửa một chiều duy nhất này chỉ có như thế? Ai làm Diêm Vương thì cũng đặng, nhưng sau thời nhà Đại Tần và ba trăm năm nhà Đại Hán thì vấn đề lại không giản dị như trước nữa, hiện tại theo lịch số thì nhà Đông Hán còn 100 năm nữa mới đứt đuôi con nòng nọc, nhưng hiện tình Âm Phủ bây giờ rất là khó khăn chung, cho những súc sinh đi đầu thai lên dương thế là chuyện hết sức là dễ dàng. Nhưng những tinh tú, những thiên tinh do Trời hạ lệnh đầu thai xuống thế gian, làm Ông làm Cha thiên hạ, làm Vua làm Quan thì khi mãn kiếp tự động trở về ngôi, như sao Tử Vi, sao Văn Khúc, sao Vũ Khúc, nhưng hiện giờ kẹt ở Âm Phủ thì toàn là sao Quả Tạ, sao Quả Tú, sao Cô Thần, sao Các Đảng, những vì sao này toàn là sao Nhân Tạo do các thầy đồ kể chuyện. Các Thuyết Thoại Nhân đẻ thêm ra trong những quán trà những khách sạn, thành ra hiện tại không biết phải xử lý cách nào? Mấy trăm năm nay ở đầy cả điạ ngục, quan không ra quan, thằng không ra thằng, cho đi đầu thai làm Trâu Chó thì anh nào anh nấy cũng biủ môi không thèm đi, ở lại thì chỉ còn cách là bốc đất bốc cứt đút vào mồm.
Vậy chuyện khó khăn chung này, giao phó hết cho xính xáng Tư Mã Trọng Tương muốn xử ra sao thì xử, muốn xét ra sao thì xét có nghĩa là muốn clear đi cái đám ác ôn côn đồ ăn hại này, càng sớm càng tốt để Âm phủ có mặt bằng mà làm chuyện khác. Sau này thì Ngọc Hoàng Thượng Đế sẽ đãi xính xáng Tư Mã Trọng Tương một triều đại mới ít ra thì trăm năm nhiều ra thì vài trăm năm, còn tuỳ?
*
Diêm Vương cho người thu xếp nơi ăn chốn ở cho Tư Mã Trọng Tương rồi trân trọng nói với xính xáng:
- Chốn này là Âm Tào, không giống như trên trần thế vậy tiên sinh muốn ăn hay muốn uống gì thì cứ lấy bút vẽ vào giấy, gọi là bánh vẽ, rồi cứ nhắm mắt lại tưởng tưởng mà thưởng thức, còn hồ sơ tài liệu cuả các đương sự thì đã cho người để sẵn trên mặt bàn, tiên sinh cứ từ từ mà đọc mà phán quyết. Sau sáu giờ đồng hồ thì một bản đáp án được soạn thảo như vầy:
- Tiền kiếp Hàn Tín hậu kiếp Tào Tháo.
- Tiền kiếp Anh Bố hậu kiếp Tôn Quyền.
- Tiền kiếp Bành Việt hậu kiếp Lưu Bị.
- Tiền kiếp Lưu Bang hậu kiếp Hán Hiến Đế.
- Tiền kiếp Lữ Hậu hậu kiếp Phục Hoàng Hậu.
- Tiền kiếp Thích Cơ hậu kiếp Cam phu nhân.
- Tiền kiếp Lưu Ẩn hậu kiếp Lưu Thiện.
- Tiền kiếp Hạng Võ hậu kiếp Quan Võ
- Tiền kiếp Phàn Khoái hậu kiếp Trương Phi.
- Tiền kiếp Kỷ Tín hậu kiếp Triệu Tử Long.
- Tiền kiếp Phạm Tăng hậu kiếp Lỗ Túc.
- Tiền kiếp Trương Lương hậu kiếp Tư Mã Thuỷ Kính
- Tiền Kiếp Lịch Tự Cơ hậu kiếp Bàng Đức Công.
- Tiền kiếp Hạng Bá hậu kiếp Văn Xú.
- Tiền kiếp Ung Xỉ hậu kiếp Nhan Lương.
Cùng bốn tướng ở mặt trận Ô Giang phản chủ cũ là Hạng Vương, làm tướng trấn năm ải để Quan Vũ đi qua chém cho bay đầu cả sáu người, làm bài học cho đồ quân chó chết phản chủ.
- Tiền kiếp Khoái Việt (Khoái Thông) hậu kiếp Khổng Minh Gia Cát Lượng người chủ trương thế chân vạc, chia ba thiên hạ.
- Tiền kiếp Hứa Phụ hậu kiếp Bàng Sĩ Nguyên, kiếp trước làm thầy bói, bói cho Hàn Tín sống đến 74 tuổỉ nhưng chỉ đến ba mươi bốn tuổi đã bị đứt phim. Nên kiếp này Bàng Sĩ Nguyên sống thử đến năm 34 tuổi thì thác, xem sống ba mươi bốn năm, có gì khoái trá không?
- Tiền kiếp Tư Mã Hân hậu kiếp Ngụy Diên (tức Nguỵ Văn Trường).
- Tiền kiếp Chương Hàm hậu kiếp lão tướng Hoàng Trung.
- Tiền kiếp Đinh Công có công giúp Lưu Bang nhưng bị Lưu Bang giết oan, nên hậu kiếp là Chu Du Đại Đô Đốc Đông Ngô.
- Tiền kiếp là Lữ Bố hậu kiếp là Khương bá Ứớc (tức Khương Duy).
- Tiền kiếp là Tiêu Hà hậu kiếp là Dương Tu, vốn là bạn rất thân cuả Hàn Tín, nhưng khi Hàn Tín bị Hán Vương bắt ở Vân Mồng, và khi bị Lữ Hậu mang giết ở lầu chuông thì Tiêu Hà không mở mồm nói một lời nào, nên đầu thai là Dương Tu vì một tô canh gà lẻo mép tự động ra lệnh rút quân làm tiết lộ quân cơ, Tào Tháo lệnh một đao chém ngọt đi đoong đời thằng bạn bất nhân bất nghĩa?
Bản án tuyên đọc xong, các tinh tú, các đương sự ai hài lòng thì cấp kỳ nhận sự vụ lệnh đi đầu thai, ai không vừa ý thì có thể ở lại kỳ kèo trao đổi thêm một thời gian nữa cho đến khi nào hài lòng thì mới thôi. Bản án thời Tiền Hán (tức Tây Hán) đến đây là hoàn chỉnh đóng sổ. Nếu có gì thắc mắc khiếu nại cần bổ sung thêm sẽ bổ sung vào phần sau của bản “tu chính án”.
*
KHÔNG THÀNH KẾ
(Tam Quốc Chí ngoại truyện)
"Đoạn ông sai Trương Dực đem một đoàn quân về trước, sửa sang lại con đường Kiếm Các để đại binh rút lui. Rồi bí mật truyền lệnh cho khắp ba quân thu xếp hành trang, sẵn sàng lên đường về nước. Sai Mã Đại, Khương Duy đi chặn hậu, dặn hai tướng phải phục binh sẵn sàng trong các hẻm núi, chờ quân nhà lui hết, bấy giờ mới được thu binh về theo. Lại sai những người thân tín chia nhau đến Thiên Thủy, An Định, Nam Am báo cho quan lại quân dân ba quận mau mau thu xếp theo đại quân vào cả Hán Trung và đặc biệt cho người tâm phúc đến Ký Huyện đón mẹ già Khương Duy vào Thục. Phân phối xong, Khổng Minh tự đem năm ngàn quân tới huyện Tây Thành chuyển vận lương thảo. Đến thành chưa kịp thu xếp bỗng thám mã phi báo:
-Tư Mã Ý kéo mười lăm vạn đại quân đang ồ ạt chạy tới đây như sóng trào gió cuốn!
Đang sửng sốt, thì lại tiếp luôn mười tin dồn dập như thế nữa. Bấy giờ bên mình Khổng Minh chẳng có một đại tướng nào, chỉ trơ một số quan văn. Có năm ngàn quân đem đến, thì đã chia một nửa đi tải lương. Trong thành chỉ còn hai ngàn năm trăm người. Các quan văn nghe tin như sét nổ ngang tai, ai nấy tái mặt mà run như gà cắt tiết. Khổng Minh nhô lên thành trông ra quả thấy cát bụi tung trời, quân Ngụy hai đường nhắm về hướng huyện thành, cuồn cuộn ào tới! Ông lập tức truyền lệnh hạ hết cờ quạt binh khí trên thành xuống, đem cất dấu đi, quân sĩ phải chia nhau nép trong các cửa, ai tự tiện ra vào lấp ló là chém, ai nói to gọi lớn cũng chém ngay. Rồi ông sai mở toang bốn cửa thành mỗi cửa chỉ để hai mươi quân sĩ ăn mặc giả nhân dân, cứ thong thả quét đường ngõ dọn phố xá, và dặn họ rằng: "Khi quân Ngụy tới, không được hốt hoảng, cứ bình tĩnh như không, rời thừa tướng sẽ có mẹo.. Chuẩn bị xong, Khổng Minh mới khoắc áo lông hạc, đội khăn luân cân, cắp một cây đàn, dẫn hai cậu tiểu đồng ung dung bước lên địch lâu. Rồi tiên sinh bệ vệ ngồi dựa lan can nhìn ra, sai đốt hương nghi ngút, lần tay... so phím tơ dạo mấy cung đàn! Chốc lát đội tiền quân Ngụy đến, chợt thấy quang cảnh li kỳ ấy, vội dừng ngay không dám nhúc nhích, và cho người trở lại báo Tư Mã Ý.
Ý nghe báo không tin! Bèn truyền đại quân tạm dừng lại. Ý phi ngựa lên trước, tiến dần đến nhìn xem, thì quả thấy Khổng Minh đang ngồi chễm chệ trên lâu thành, cười nói ung dung, tươi như hoa nở! Bên khói hương díu dặt, tay tả thoăn thoát so phím đàn, tay hữu nhẹ nhàng bấm dây tơ thánh thót... Bên trái một cậu tiểu đồng nâng thanh bảo kiếm. Bên phải một cậu tiểu đồng cầm cây phât trần. Cửa thành thì mở toang, bên trong bên ngoài chỉ có vài mươi người dân đang cúi lom khom quét tước. Ngoài ra tất cả đều vắng tanh, im lìm! Ý nhìn qua một lượt, lòng nghi hoặc sực nhớ ra một chuyện!!! Lập tức quay ngựa chạy về trung quân, truyền lệnh đổi hậu quân làm tiền đội, tiền đội quay lại làm hậu quân, tức tốc nhắm ra con đường phía bắc mà chạy.
(Trích Tam Quốc Chí diễn nghĩa của La Quán Trung từ trang 1718-1719-1720 dịch giả Tử Vi Lang).
(Tam Quốc Chí ngoại truyện)
"Đoạn ông sai Trương Dực đem một đoàn quân về trước, sửa sang lại con đường Kiếm Các để đại binh rút lui. Rồi bí mật truyền lệnh cho khắp ba quân thu xếp hành trang, sẵn sàng lên đường về nước. Sai Mã Đại, Khương Duy đi chặn hậu, dặn hai tướng phải phục binh sẵn sàng trong các hẻm núi, chờ quân nhà lui hết, bấy giờ mới được thu binh về theo. Lại sai những người thân tín chia nhau đến Thiên Thủy, An Định, Nam Am báo cho quan lại quân dân ba quận mau mau thu xếp theo đại quân vào cả Hán Trung và đặc biệt cho người tâm phúc đến Ký Huyện đón mẹ già Khương Duy vào Thục. Phân phối xong, Khổng Minh tự đem năm ngàn quân tới huyện Tây Thành chuyển vận lương thảo. Đến thành chưa kịp thu xếp bỗng thám mã phi báo:
-Tư Mã Ý kéo mười lăm vạn đại quân đang ồ ạt chạy tới đây như sóng trào gió cuốn!
Đang sửng sốt, thì lại tiếp luôn mười tin dồn dập như thế nữa. Bấy giờ bên mình Khổng Minh chẳng có một đại tướng nào, chỉ trơ một số quan văn. Có năm ngàn quân đem đến, thì đã chia một nửa đi tải lương. Trong thành chỉ còn hai ngàn năm trăm người. Các quan văn nghe tin như sét nổ ngang tai, ai nấy tái mặt mà run như gà cắt tiết. Khổng Minh nhô lên thành trông ra quả thấy cát bụi tung trời, quân Ngụy hai đường nhắm về hướng huyện thành, cuồn cuộn ào tới! Ông lập tức truyền lệnh hạ hết cờ quạt binh khí trên thành xuống, đem cất dấu đi, quân sĩ phải chia nhau nép trong các cửa, ai tự tiện ra vào lấp ló là chém, ai nói to gọi lớn cũng chém ngay. Rồi ông sai mở toang bốn cửa thành mỗi cửa chỉ để hai mươi quân sĩ ăn mặc giả nhân dân, cứ thong thả quét đường ngõ dọn phố xá, và dặn họ rằng: "Khi quân Ngụy tới, không được hốt hoảng, cứ bình tĩnh như không, rời thừa tướng sẽ có mẹo.. Chuẩn bị xong, Khổng Minh mới khoắc áo lông hạc, đội khăn luân cân, cắp một cây đàn, dẫn hai cậu tiểu đồng ung dung bước lên địch lâu. Rồi tiên sinh bệ vệ ngồi dựa lan can nhìn ra, sai đốt hương nghi ngút, lần tay... so phím tơ dạo mấy cung đàn! Chốc lát đội tiền quân Ngụy đến, chợt thấy quang cảnh li kỳ ấy, vội dừng ngay không dám nhúc nhích, và cho người trở lại báo Tư Mã Ý.
Ý nghe báo không tin! Bèn truyền đại quân tạm dừng lại. Ý phi ngựa lên trước, tiến dần đến nhìn xem, thì quả thấy Khổng Minh đang ngồi chễm chệ trên lâu thành, cười nói ung dung, tươi như hoa nở! Bên khói hương díu dặt, tay tả thoăn thoát so phím đàn, tay hữu nhẹ nhàng bấm dây tơ thánh thót... Bên trái một cậu tiểu đồng nâng thanh bảo kiếm. Bên phải một cậu tiểu đồng cầm cây phât trần. Cửa thành thì mở toang, bên trong bên ngoài chỉ có vài mươi người dân đang cúi lom khom quét tước. Ngoài ra tất cả đều vắng tanh, im lìm! Ý nhìn qua một lượt, lòng nghi hoặc sực nhớ ra một chuyện!!! Lập tức quay ngựa chạy về trung quân, truyền lệnh đổi hậu quân làm tiền đội, tiền đội quay lại làm hậu quân, tức tốc nhắm ra con đường phía bắc mà chạy.
(Trích Tam Quốc Chí diễn nghĩa của La Quán Trung từ trang 1718-1719-1720 dịch giả Tử Vi Lang).
*
Theo khẩu lệnh của đại đô đốc thì ngay tối nay, có một buổi họp đột xuất hiện là "Giao ban đêm" các tướng lãnh ai hưỡn thì mời tới họp tham gia, mà không muốn họp thì cứ tự nhiên qui an, giờ họp là giờ Tuất (tức là vào quãng từ 7 giờ đến 9 giờ tối). Sau đó thì lục tục kéo đến trên mười vị, an tọa trà nước xong thì Đại đô đốc Tư Mã Ý phát biểu mở màn khai trương:
- Trong các vị tướng soái, xin cho vài nhận xét về hiện trường chiều nay quân tình của Ngụy và Thục. Xin cứ nhiên như người Hà Nội tự do phát biểu, để tìm ra một bài học kinh nghiệm cho các kỳ hành quân tới.
Thấy ai ai cũng có ý dò dẫm chưa dám nói ra sợ không phù hợp với phiên họp thì Phó Đô Đốc Tư Mã Chiêu con lớn của Đại Đô Đốc bạo miệng nói:
- Theo như nhận xét của riêng con, sau khi thất bại ở Nhai Đình, chém đầu Mã Thốc để làm gương cho chúng tướng, Khổng Minh đang chuẩn bị rút quân, quân chúng tướng lãnh mỗi cánh phân tán đi nhiều ngả. Phần Khổng Minh thì lo di chuyển bộ phận lương thảo, trong thành tổng cộng có năm ngàn quân, một nửa số này thì lo đi khuân vác quân lương, quân số dùng để tác chiến còn lại có một nửa, với nữa lại không có một thượng tướng nào để điều bát quân đội đánh giặc. Nên lão Khổng Minh mới bày ra cái kế Thành Không để lão ngồi khẩy đàn, ung dung tự tại. Ngay lúc này, cho vài tên quân leo lên Lâu Thành tóm cổ lão. Lấy dây lòi tói trói hai tay, lấy dây xích chó trói hai chân, đẩy lão vào tù xa giải về Hứa Đô là xong chuyện, là dứt con vịt đẹt.
Nói vừa dứt thì có một lão tướng mặt vàng nói tiếp:
- Theo ý của tiểu tướng thì hoàn toàn nhất trí cao với lời trao đổi của phó Đô Đốc.
Một vị tì tướng mặt trắng còn trẻ đứng thẳng người lên phát biểu:
- Tiểu tướng cũng hòa toàn thống nhất với ý kiến trên.
Tư Mã Ý nói thêm:
- Anh em ta cấp bậc tuy có khác nhau nhưng cũng toàn là dân nhà Võ nhà Banh, huynh đệ chi binh cả. Vậy trong anh em tướng lãnh có gì cần vạch ra, thì xin cứ tự nhiên vạch ra. Đại Đô Đốc ta sẽ nắm trọn một lần là nắm hết trọi, để nghiên cíu, điều nghiên cho chuẩn xác. Vậy thì cứ tự nhiên mà vạch ra đi.
Tư Mã Ý nói thêm:
- Anh em ta cấp bậc tuy có khác nhau nhưng cũng toàn là dân nhà Võ nhà Banh, huynh đệ chi binh cả. Vậy trong anh em tướng lãnh có gì cần vạch ra, thì xin cứ tự nhiên vạch ra. Đại Đô Đốc ta sẽ nắm trọn một lần là nắm hết trọi, để nghiên cíu, điều nghiên cho chuẩn xác. Vậy thì cứ tự nhiên mà vạch ra đi.
Một tướng trung niên mặt đen râu quai nón nói:
- Đây là dịp ngàn năm một thủa, bắt cha cái thằng Khổng Minh nhôt vào cũi chó là xong việc, khỏi cần phải đánh đấm gì cả, mất sức lao động, cái thành nhỏ như hột mít, mà quân số của chúng ta có cả mười lăm vạn, chỉ cần đứng không thôi cũng đã chật cả thành rồi, không cần đánh chác gì cả, chỉ đứng mà thở thôi cũng không đủ không khí mà thở. Kỳ này lão Khổng Minh chết chắc?
Thấy không khí buổi họp trao đổi có vẻ găng sợ sắp đứt, nên Đại Đô Đốc nói nhỏ với một tên tiểu hiệu đứng cạnh, tên này chạy đi một chập sau thì hai tay ôm hai hũ rượu loại lớn và vài tiểu hiệu ôm thêm hũ rượu còn xi gắn kín và giấy đỏ còn niêm phong, mạnh ai nấy uống, nửa giờ sau thì đại đô đốc trao đổi:
- Các tướng soái, ai còn ý kiến gì thì cứ nói, nếu không thì rượu nói, sau rốt không ai nói nữa thì bổn Đô Đốc sẽ tổng kết phiên họp.
*
Các tướng lãnh rượu vào thì buồn ngủ, ý của Đại Đô Đốc thu gọn lại nội dung như sau:
Con hơn cha là nhà có Phúc, Tào Phi hơn hẳn Tào Tháo, Tào Duệ thì ăn đứt Tào Phi. Chúng ta cùng chung một số phận, khi nào nhà Ngô hay nhà Thục tạo ra binh biến hoặc chiến tranh lẩm cẩm gì đó, thì Ngụy Vương mới ra lệnh tổng động viên. Đánh chác dăm bữa nửa tháng tình hình chiến sự tạm ổn, là triều đình cho về thuộc vào cái loại quân nhân trừ bị tại gia, lão phu (tức Tư Mã Ý) cứ vài năm lại phục viên đuổi gà cho vợ, gần 10 năm rồi bây giờ mới được tái ngũ.
Cũng may là cái lão Khổng Minh dở rắm dở thối ra, Ngụy Vương mới cần tới cái tài quân sự của chúng ta, chính ta phải gửi thư tay khẩn cấp cho lão, nhờ lão mang quân ra Kỳ Sơn sinh sự giùm. Nhờ có lão mà chúng ta mới có ngày vinh quang hôm nay. Nếu không có lão thì Tư Mã Mỗ ta suốt ngày bồng con bế cháu, đi chợ nấu cơm giặt quần áo cho vợ khố lắm lắm, làm tướng soái chúng ta phải biết phân biệt ai là bạn hữu đương đại, ai là kẻ thù quá khứ vị lai.
Các tướng lãnh ai thống nhất với ý kiến này của Tư Mã Mỗ thì về ngủ thẳng giấc, ai thống nhì thì thư thả chúng ta sẽ trao đổi lại vào những dịp khác.
Chu Vương Miện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét