Đọc thơ khác với đọc văn. Mục đích của đọc văn là tìm thông điệp – xem tác giả muốn nói với mình điều gì. Cảm xúc đôi khi cũng có nhưng chỉ là sản phẩm phụ. Đọc thơ thì ngược lại - cảm xúc là chính, thông điệp là phụ. Thông điệp đôi khi chỉ là phương tiện để chuyển tải cảm xúc.
Giới chuyên môn đánh giá mức độ Hay Dở của bài thơ sẽ dựa vào lượng cảm xúc nó đem đến cho người đọc.
Có 3 tầng cảm xúc trong thơ.
1/ Cảm Xúc Tầng 1:
Phát sinh khi người đọc gặp được ngôn ngữ, hình tượng đẹp, chắt lọc (bình dân hay cao sang), câu cú gọn gàng, không sai phạm, chuyển tải ý tứ một cách sâu sắc.
2/ Cảm Xúc Tầng 2:
Phát sinh khi người đọc “bắt” được cái hay của sự nối kết các câu, các đọan một cách hợp lý làm nổi bật tứ thơ – nói chung là thế trận của bài thơ.
3/ Cảm Xúc Tầng 3:
Không đến từ câu chữ và cũng không đến từ thế trận.
Nó là luồng hơi nóng len lỏi vào tâm hồn người đọc, tạo ra thứ cảm giác sướng nhất, đã nhất - không thể tiếp cận bằng lý trí mà chỉ có thể cảm nhận bằng tâm hồn. Nó chính là hồn thơ.
Hồn Thơ Từ Đâu Đến?
Cảm xúc từ trạng thái cao hứng có thể tạo hồn thơ không phải từ ngay lúc thi sĩ bắt đầu phóng bút mà sau đó một khoảng thời gian – nhanh chậm tùy thi sĩ và tùy bài thơ. Khi tâm trạng chia thành những mảnh tứ thơ nhập vào các con chữ trải xuống trang thơ, ban đầu còn từ từ chậm rãi vì phải dẫn nhập, giải thích nguồn cơn.
Rồi những mảnh tâm trạng ấy – cũng là những mảnh tứ thơ - nhờ cảm xúc từ cơn cao hứng thôi thúc, cứ ào ạt tuôn ra, mảnh trước dẫn dắt, réo gọi mảnh sau, cho sóng sau dồn sóng trước tạo thành cao trào.
Lúc đó cảm xúc sẽ dâng lên phủ mờ lý trí để hồn thơ xuất hiện. Nếu bài thơ dài có thể có nhiều điểm nhấn của tứ thơ, nhiều chỗ có cao trào và nhiều chỗ xuất hiện hồn thơ.
(Lúc đầu khi viết về đề tài này chỉ trường hợp lý trí hoàn toàn biệt tăm, mất dạng, cảm xúc dâng trào cao ngất, tôi mới dùng 2 chữ Hồn Thơ. Còn những trường hợp như (a/, b/, c/) ở đoạn sau tôi dùng cụm từ “cảm xúc tầng 3” kèm một tĩnh từ cao thấp khác nhau. Sau này tôi thay đổi để độc giả “dễ bắt” hơn).
Tùy theo “lượng” lý trí còn sót lại trong tâm hồn thi sĩ lúc tứ thơ lên đến cao trào ta có những loại hồn thơ saư đây:
a/ Hồn thơ rất nhẹ, hồn thơ phơn phớt nhẹ: Lý trí vẫn còn sót lại.
b/ Hồn thơ man mác, nhẹ nhàng: Còn sót lại nhưng ít hơn.
c/ Hồn thơ khá mạnh: Còn sót lại it hơn nữa
d/ Hồn thơ lai láng: Lý trí biệt tăm, biến mất hoàn toàn.
Khi cảm xúc hoàn toàn nắm quyền đạo diễn, leo lái đoạn thơ (hoặc bài thơ), lý trí - thủ phạm của mọi thứ gian dối, xảo trá trong suy nghĩ, lời nói, cách ứng xử của thi sĩ – đã tạm thời biến mất. Lời thơ sẽ là Tiếng Lòng Chân Thật.
Đó là mục đích tối hậu, cao quý nhất của công việc làm thơ. Qua đoạn thơ, bài thơ thi sĩ đã cho phép người đọc đối thoại với mình bằng Tiếng Người (viết hoa) của “cái tôi đích thực” (chứ không phải “cái tôi văn hóa”).
Cái Nền Kỹ Thuật Của Bài Thơ
Muốn ít nhiều có Hồn bài thơ phải có những điều kiện Căn Bản sau đây:
1/ Thơ phải “nhất khí liền mạch”, trải dài từ câu đầu đến câu cuối chứ không phân mảnh, đứt đoạn. Điều kiện này giúp tứ thơ chảy thành dòng.
2/ Vần liên tiếp vừa độ ngọt – ít vần quá thì dòng chảy của của thơ không trơn, nhiều vần quá sẽ gây nhàm chán. Điều kiện này giúp thơ có dòng âm điệu vừa thông thoáng vừa “dễ nghe”, “giữ” người đọc ở lại với bài thơ.
3/ Nhịp điệu uyển chuyển, sinh động chứ không đều đều tẻ nhạt. Muốn thế số chữ trong câu thơ phải thay đổi. Điều kiện này giúp giải quyết (phần lớn) hội chứng nhàm chán vần.
Vần và Nhịp Điệu sẽ tạo thành dòng nhạc trong thơ.
5/ Độ dài của bài thơ:
Muốn có Hồn bài thơ phải có độ dài đáng kể. Để làm gì?
a/ Để có “đất” giới thiệu cảnh thơ, giải thích nguồn cơn mối lương duyên, sự dan díu giữa thi sĩ và tứ thơ.
b/ Để có “đất” cho những mảnh tâm trạng hóa thân thành những mảnh tứ thơ nhập vào con chữ liên tục tuôn xuống trang giấy gây nên cảnh “sóng sau dồn sóng trước” cho cảm xúc lớn mạnh tạo cao trào.
Trên đây là những điều kiện Căn Bản, Cần Thiết, là Cái Nền Kỹ Thuật để có thể tạo Hồn Thơ, đưa bài thơ thẳng hướng tiến về Bến Bờ Thơ Ca.
Phạm Đức Nhì
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét