CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 19 tháng 8, 2025

MỖI NGÀY LÀ MỘT NGÀY QUA – Thơ Trần Vấn Lệ


        
                            Nhà thơ Trần Vấn Lệ duyên vẽ 
                            theo yêu cầu của Nguyệt Mai  


Mỗi ngày là một ngày qua,
như hoa... sáng nở, chiều tà...thì phai.
 
Có hoa chỉ có một ngày,
có hoa... mình nhớ hoài hoài Thiên Thu!
 
Hoa ơi có dám nói ừ
để cho tôi nhớ hoa từ công viên? 
 
Có người nhìn hoa rồi khen.
Tôi nhìn hoa thấy nụ Duyên nở thầm...
 
Có con bướm ghé vườn thăm
hoa hay tôi nhỉ?  Mình thân mến mà...
 
*
Gió rồi... đuổi bướm bay xa
Nắng đang reo bỗng như là nắng rơi...
 
Hoa là hoa?  Hoa là người?
Hay hoa chỉ một tôi Thời Thanh Xuân...
 
Tôi mua hoa cho Tình Nhân:
"Mình yêu nhau nhé!  Em cầm hộ anh!"
 
Hoa à, người đó long lanh
hai con mắt nâng nhẹ cành hoa thương...
 
                                           Trần Vấn Lệ

TÔN TRUNG SƠN KHINH MIỆT DÂN TỘC VIỆT NAM ĐƯỢC THỦ TƯỚNG NHẬT CHO MỘT BÀI HỌC


Inukai Tsuyoshi 犬養 
Thủ tướng thứ 29 của Nhật Bản

Chuyện kể rằng, trong một bữa tiệc thiết đãi Tôn Trung Sơn ở Tokyo vào năm 1911, chủ bữa tiệc, thủ tướng Nhật Bản Tsuyoshi Inukai hỏi Tôn Trung Sơn:
- Ngài nghĩ gì về dân tộc Việt Nam?
Tôn Trung Sơn đã trả lời:
- Dân tộc Việt Nam có căn tính nô lệ, xưa họ bị chúng tôi thống trị nay lại bị người Pháp thống trị, họ không thể có một tương lai thực sự sáng sủa.
Inukai trầm ngâm suy nghĩ rồi nói:
- Tôi không đồng ý với ngài về điểm này. Mặc dù hiện nay họ chưa độc lập, họ đã là dân tộc duy nhất trong nhóm Bách Việt đã chống lại thành công quá trình Hán hóa. Một dân tộc như vậy sớm muộn cũng dành được độc lập của chính mình.
Ông nói tiếp:
- Hình như ngài chưa đọc kỷ về lịch sử Trung Quốc và ngay cả lịch sử của Bách Việt trong đó có Quảng Châu, nơi gốc gác của ngài, đã bị Hán hóa đến mức mất đi hoàn toàn bản sắc văn hóa của mình, tự coi mình là người Trung Quốc.
Ngài có biết Trung Quốc đã từng bị ngoại bang đô hộ nhiều lần hay không?
Năm 947 CN dị tộc Khiết Đan (Kushan) cai trị TQ đổi tên nước là Liêu; năm 1115 CN người Nữ Chân cai trị TQ lập ra triều Kim; năm 1279 CN người Mông Cổ cai trị TQ đổi tên là Nguyên; năm 1644 người Mãn Châu cai trị TQ lập ra Nhà Thanh. So với Việt Nam thì lịch sử Trung Quốc không có gì đáng hãnh diện?
Nghe xong họ Tôn nói lảng sang chuyện khác.
 

CỚ SAO ĐỔI TÊN "CHIM ÉN" THÀNH "CHIM NHẠN" – Lê Mạnh Chiến



Nỗi băn khoăn khó dứt
 
Trong một lần giở cuốn Từ điển Anh Việt (của Ủy ban Khoa học Xã hội, Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản  Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975, 1960 trang, khổ 17 x 25cm), gặp từ swallow, người viết bài này không khỏi ngỡ ngàng khi nhìn thấy những dòng sau đây:
 
swallow1  dt (động)  Chim nhạn.
One swallow does not make a summer 
Một con nhạn không làm nên mùa xuân.
 
(Từ swallow trong tiếng Anh có vài nghĩa khác nhau; swallow1 tức là nói về nghĩa thứ nhất, là danh từ chỉ tên một loại động vật)
 
Nhóm từ does not make a summer nghĩa là không làm nên mùa hạ chứ chẳng phải là không làm nên mùa xuân. 
Hơn nữa, từ swallow trong tiếng Anh (là danh từ chỉ tên chim) hoàn toàn đồng nghĩa với từ hirondelle trong tiếng Pháp và với từ chim én trong tiếng Việt. Vậy, câu “One swallow does not make a summer” phải được dịch sang tiếng Việt là “Một con én không làm nên mùa hạ”.
 
Không ít người Việt Nam đã từng biết câu ngạn ngữ “Một con én không làm nên mùa xuân”. Nó đã đến nước ta qua sách báo tiếng Pháp, vốn là câu “Une hirondelle ne fait pas le printemps”.

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2025

CẦN HIỂU ĐÚNG NAM KỲ & NAM BỘ - Tố Ngọc Trần sưu tầm



Không ít người trẻ thời nay được dạy sử kiểu này: "Vua Bảo Đại vào tháng 3/1945 đổi sang gọi Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ vì gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang tính chất kỳ thị vùng miền" (?). Cái này kêu bằng "giết sử" chớ viết sử gì nổi!
 
Phải nói về danh xưng "ba miền", theo nghĩa địa lý hiện nay (Nam, Trung, Bắc) cho có đầu có đũa cái đã.
Hồi thời vua Lê Thánh Tôn, nước Việt mới tới Phú Yên, nghĩa là chỉ có miền Bắc, và miền Trung dở dang (chưa trọn miền Trung), thành thử không có "ba miền".

Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Đàng Trong mở rộng đến Cà Mau nhưng hùng cứ một cõi, không ăn nhập với Đàng Ngoài, thành thử cũng không thành "ba miền".
Chỉ sau khi vua Gia Long thống nhứt sơn hà thì lãnh thổ chữ S mới xôm tụ, đề huề gồm đủ Nam / Trung/ Bắc.
 
1808, vua Gia Long định lại bờ cõi mà phân địa giới khu vực: ngoài khu vực kinh thành ở miền trung, chia làm hai miền bắc nam: khu vực phía bắc gọi là "Bắc Thành", khu vực phía Nam gọi là "Gia Định Thành" bao trùm toàn miền nam gồm 5 trấn (Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, An Giang).

Đến cột mốc "1832" mới thực đáng chú ý hơn.
Chú ý thứ nhứt: Vua Minh Mạng phân ranh địa giới thành các TỈNH, và khái niệm "tỉnh" được xài cho đến hiện nay (không còn xài cách gọi "đạo", "dinh", "trấn"... của bao nhiêu đời xửa xưa gì nữa)! Suốt 187 năm (tính cho đến năm 2019), địa giới mỗi tỉnh mỗi thời - dĩ nhiên - có thay đổi (nhập vào, tách ra, đổi tên gọi búa xua).
 
Chú ý thứ nhì: Dưới thời vua Minh Mạng xuất hiện cách gọi ba miền là Bắc Kỳ, Trung Kỳ (hồi đó gọi tỉ mỉ hơn: Hữu Kỳ, Trực Kỳ nằm nơi kinh đô, và Tả Kỳ - gộp chung lại là "Trung Kỳ"), và Nam Kỳ (toàn miền nam gồm 6 tỉnh, nên quen gọi "Nam Kỳ Lục tỉnh": Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên).
 
Sử sách rõ rành như vậy, vậy mà bây giờ nảy nòi lối viết bừa phứa. Đó, "danh xưng Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ xuất hiện dưới thời Pháp thuộc, cách gọi này mang dấu ấn thuộc địa", viết bừa như vậy mà cũng viết cho bằng được!
 
Tây vào VN, họ định danh ba miền bằng tiếng Tây "Tonkin", "Annam", "Cochinchine", làm gì có miếng tiếng Việt nào ở trỏng! Trong khi đó, người Việt vẫn giữ cách gọi chính thức của tiền nhân chúng ta - bằng tiếng Việt rành rành là "Bắc Kỳ", "Trung Kỳ", "Nam Kỳ" - suốt hơn một thế kỷ, từ năm 1832 đến năm 1945.
 
Viết sử sai bét như trên, của ông bà mình đem gán cho Tây, cầm bằng GIẾT SỬ chớ còn gì nữa!
Giết kiểu sau đây còn ghê hơn nữa: "Vua Bảo Đại vào tháng 3/1945 đổi sang gọi Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ vì gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang tính chất kỳ thị vùng miền" (?).
 
Cách gọi Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ là do tiền nhân triều Nguyễn đặt ra, nói vua Bảo Đại "bỏ đi vì nó mang tính kỳ thị vùng miền" thì có khác nào vua Bảo Đại chửi tông tổ chính mình? Cái này gọi là chiêu trò "gắp lửa bỏ tay người"!
 
Theo hồi ký của cụ Trần Trọng Kim, vua Bảo Đại vào tháng 3/1945 có đổi sang gọi "Bộ" thay vì "Kỳ", nhưng không phải với lý do của giới "giết sử" bịa ra.
Nhựt Bổn sau khi đảo chính Pháp, cầm trịch, và nghe nói thống sứ Nhựt Nashimura là người đổi CÁCH GỌI TRUYỀN THỐNG "Kỳ (Bắc, Trung, Nam)" của người Việt sang cách gọi "Bộ (Bắc, Trung, Nam)" hết ráo.
Người Nhựt, sau đó, chấp thuận cho vua Bảo Đại tuyên cáo độc lập và thành lập chánh phủ riêng của người VN (tức chánh phủ Trần Trọng Kim). Chánh phủ của vua Bảo Đại vuốt mặt cũng phải nể mũi, tạm thời không đổi "Bộ" trở lại thành "Kỳ" của tiền nhân, trong khi đó dồn công sức thực hiện một số cải cách, chẳng hạn, trong giáo dục...
 
Chánh phủ này chỉ hiện hữu mấy tháng ngắn ngủi, rồi dứt. Nhà nước VNDCCH, sau đó, sử dụng cách gọi "Bộ", nghe riết thành quen.
 
Quen đến mức nhiều người thời nay cứ tưởng "Nam Bộ" là cách gọi ... có từ thuở mở cõi miền Nam. Tưởng vậy là tưởng bở. Hai chữ "Nam Bộ" xuất hiện mới được mấy chục năm thôi giữa dòng lịch sử dài hơn ba trăm năm của đất phương Nam (với nhiều tên gọi về vùng đất này, trong đó danh xưng "Nam Kỳ lục tỉnh" có tuổi đời cách đây 187 năm, gần hai thế kỷ rồi đa).
 
Thành thử nếu viết: "Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên phản ảnh khí chất con người Nam Bộ lúc bấy giờ", xét thiệt nghiêm túc thì câu viết như vậy là... trật. Cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu sống khôn thác thiêng, nếu cụ thử ghé về dương gian ắt cụ phải giật mình, "Bây viết Nam Bộ là cái giống gì? Thuở sanh tiền, ta chớ hề nghe nói tới chữ đó. Nó ... nằm ở đâu?". Nên nhớ: cụ đồ Chiểu qua đời năm 1888, bấy giờ là Nam Kỳ, mãi 57 năm sau mới nảy nòi ra tên gọi "Nam Bộ".
 
Viết cho đàng hoàng, cho tử tế, nên là: "Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên phản ảnh khí chất con người NAM KỲ lục tỉnh lúc bấy giờ" (rồi chú thích "nay gọi là Nam Bộ").
 
Đặt cách gọi của giới làm chánh trị đời sau trùm lên đầu cách gọi của tiền nhân, có khác nào con đẻ ra cha, cháu đẻ ra ông!
 
                                             Theo nguồn: Facebooker Lê Văn Quý.
                                                          Tố Ngọc Trần sưu tầm

HƯƠNG TUỔI THƠ, TA VỀ VỚI TUỔI THƠ TA, NGẬP NGỪNG THU – Thơ Tịnh Bình


 

 
HƯƠNG TUỔI THƠ
 
Giấu vào trong quả thị
Hương mùa thu xôn xao
Chút nắng vàng như thể
Tỏa khu vườn nôn nao
 
Gió thơm mùi cổ tích
Bà đi chợ đàng xa
Chú vàng anh đánh tiếng
Cô Tấm chợt hiện ra
 
Ơi mùa thu quả thị
Hương tuổi thơ ngọt ngào
Bao lâu rồi vẫn ngỡ
Ánh trăng vàng treo cao...
 

BON MATIN HÔM NAY – Thơ Trần Vấn Lệ


         
                                     Trần Vấn Lệ by Đinh Cường


Sáng hôm nay giống giống / sáng hôm qua!  Nắng rồi!
Mới có năm giờ thôi, chim hót lời chào sáng!
Mặt trời thật lãng mạn, nắng lao xao màu hồng...
Trời có thể sẽ trong.  Rất trong.  Và rất nóng...
 
Mùa Hè mà!  Hy vọng:  Mưa... Chắc không có đâu!
Nước vẫn chảy qua cầu, mây đầu non rất nhạt...
Chút gió thôi, man mát, ngày mới thế là hiền!
Chắc chắn em có duyên, hôn em, chào Ngày Mới...
 
Đường đi nào... cũng tới / là con đường Thời Gian!
Đại lộ đó thênh thang, mình choàng vai là chật...
Anh chải em suối tóc.  Gió len lỏi ngàn thông...
Đà Lạt rừng ơi rừng...thưa rừng còn núi đứng...
 
Còn chúng mình, cái bóng... nằm mắc võng trong thơ!
Anh nghĩ đến buổi trưa, không gian mờ mờ ảo...
Anh hôn em tà áo... hứa lòng: Không Ăn Gian!
... cho em đừng hoang mang!  Cho thơ còn bất tận!
 
*
Bình mình, trời rải nắng.  Nắng hồng như môi em...
Nụ hoa hồng làm duyên... và em cười thật đẹp!
Anh nghĩ tới đó, hết.  Bài thơ này cầm hôn...
Hôn em ở đầu non... Hôn em từ cuối biển...
 
Quê Hương - Niềm Xao Xuyến... tưởng mình đang bên nhau!
Buổi sáng đâu cũng màu - cái màu hồng thân ái...
Cũng tại em, Con Gái - anh thể chê Giai Nhân...
Em à, em biết không... Em à, yêu Quý Em!
 
                                                                          Trần Vấn Lệ

VỤ ÁN VU KHỐNG BẢN QUYỀN THƠ - Võ Đắc Danh


Nhà báo Võ Đắc Danh

Xưa nay trong thiên hạ thường xảy ra chuyện ăn cắp bản quyền trong thơ văn, nhưng tôi có lần bị dính vào một chuyện ngược đời, đó là bị vu khống tác quyền.
Cả đời tôi chưa bao giờ làm nổi một câu thơ, vậy mà có lần tôi "bị" nổi tiếng với một bài thơ. Đó là giữa năm 2008, trên mạng Yahoo 360 xuất hiện và lan truyền một bài thơ của Võ Đắc Danh:
 

NGUYỄN QUANG LẬP VIẾT VỀ TỐ HỮU



Một hôm mình đọc bài của Nguyễn Quang Thiều viết về Tố Hữu, thấy nó viết hay kinh. Những chuyện nó kể mình đều biết cả nhưng chưa bao giờ dám viết ra. Thế mà nó viết ngon trớt, đọc nghe êm ru, lại còn cảm động nữa.  Đọc bài nó xong, mình ngồi thừ, thấy tiếc. Thằng Thiều cũng gặp Tố Hữu loáng thoáng như mình thôi, thậm chí chẳng bằng mình thế mà nó có bài ngon lành, còn mình thì không. Mình cú, định viết bài đấu lại nó, nhưng lại nghĩ xưa ông sống thì không viết, giờ ông chết rồi có viết kiểu gì người ta cũng cho mình nói phét, nên thôi. Nhưng sáng nay tự nhiên muốn viết về ông quá, định bụng 5,6 giờ chiều mới viết, nhưng mót viết chịu không nổi. Thế là víêt luôn.
 

DÁNG KIỀU – Thơ Lê Kim Thượng


    
 
1.
Em sang khoe dáng người yêu
Chân son bước nhẹ, dáng Kiều thướt tha
Con đường nhỏ, bước chân qua
Em đi lối cỏ, đường hoa trắng ngần
Hoa Xoan nở tím mùa xuân
Áo em tím đậm bâng khuâng trong lòng
Gió Nồm thổi nhẹ trên đồng
Nắng qua kẽ lá, má hồng hây hây
Mùa xuân em hỡi có hay
Đỏ trời hoa Gạo, đắm say chúng mình
Vườn yêu nắng sáng lung linh
Đôi ta chung bước đậm tình tinh khôi
Bên tôi, em thủ thỉ lời
“Mình yêu nhau mãi suốt đời nghe anh
Đã thương, thương hết lòng mình
Qua bao năm tháng, cuộc tình vẫn nguyên…”
 

Thứ Ba, 12 tháng 8, 2025

HÃY HỒN NHIÊN NHƯ CỎ NHƯ HOA - Trần Vấn Lệ



Hoa nào thì cũng đẹp...  Hãy nói thế cho vui!  Bạn thử đi lên đồi / nhìn Nước Non mình chút:  Bạn thấy đó, Tổ Quốc / dẫu đây không nguy nga / nhưng nó là Sơn Hà / có cỏ hoa tô điểm...
 
Đi sâu vào núi hiểm, cũng thấy cỏ hoa nha!  Không thấy cửa thấy nhà, không thấy người thấp thoáng / vài con nai lảng vảng, vài con chim bay bay... Vẫn Nam Bắc Đông Tây / khi bạn nhìn phương hướng... Hai chân bạn có vướng... cỏ hoa, vui cứ đi!  Chắc chắn bạn ngất ngây / thấy sương mù như lụa / nhớ Mạ thời con gái / nhớ Ba thời... phong lưu / thấy dòng nước chảy xuôi / thấy ai ngồi gội tóc...
 
Bạn ơi, mình hạnh phúc là còn thấy Cỏ, Hoa...
Nụ hoa thì kiêu sa,
Nhánh cỏ thì mướt rượt,
Hai cánh tay là thước, bạn đo đi không gian!
 
*
Ôi không gian thời gian / luôn luôn Trời đùm bọc / cho đời chữ Hạnh Phúc / vẽ bằng sơn bình minh /  vuốt đầu trưa bóng nắng, chiều đứng ngắm hoàng hôn... Chữ Hoàng Hôn có Hồn - đấy, Hồn Nhiên Yêu Quý!
 
Bài thơ này, một tí, anh, Thương Nhớ Gửi Em!
                                                                                      Trần Vấn Lệ

KHU VƯỜN KÝ ỨC - Thơ Tịnh Bình


   
 

KHU VƯỜN KÝ ỨC
 
Trong khu vườn hoài niệm mùa ấu thơ
Nơi ô cửa sổ
Mở ra những sớm mai
Chíu chít bầy chim sẻ ngậm về hạt nắng
Tưới tẩm những non xanh
 
Bay lên từ gác bếp
Chòng chành sợi khói
Ủ mùi khét nắng lên tóc bà tóc mẹ
Rau đắng đất sau hè
Ai có còn thương ?
 
Bảng lảng hoàng hôn
Tiếng trẻ ngây thơ gọi cánh diều chấp chới
Cỗ xe bò đi về trầm mặc
Trĩu nặng mùa vàng rực rỡ phía sau lưng
 
Những sớm mai lặng im
Tự ngắm mình giữa muôn trùng hồi tưởng
 
Chợt thảng thốt tiếng chim trên cao
Trong chiếc lồng hồi ức
Khu vườn... tan biến những non xanh...
 
                                           Tịnh Bình

CHU VƯƠNG MIỆN VỚI NIỀM KHẮC KHOẢI TÂM LINH - Tạp văn Nguyễn Nguyên An


Nhà thơ Chu Vương Miện
 
Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng – Vancouver – Canada vừa viết trên Tạp chí Sông Hương số 246 (2009) Mục Tác giả tác phẩm và dư luận: “Khoảng từ năm 1970, xuất hiện nhiều tác giả trẻ, một số mặc áo lính, trên các báo, nhất là ở các địa phương. Một số chưa có thời gian để in tác phẩm của mình. Tôi nhớ những tên tuổi như Y Uyên, Ngô Kha, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Trần Dzạ Lữ, Chu Vương Miện… Bắt  đầu thành một dòng chảy khác, mà người chinh phục tôi nhất là Phan Nhật Nam.”. Với riêng tôi, tôi yêu Ngô Kha & Chu Vương Miện (CVM).
 
CVM tên thật là Nguyễn Văn Thưởng, sinh năm 1941 tại Kiến An (miền Bắc), anh cầm bút từ những năm 1960, thơ anh đã đăng trên nhiều Tạp chí tại Sài Gòn: Thời Nay, Bách Khoa, Văn Học, Tiền Phong. Trước 1975, đã có 5 tác phẩm được ấn hành:
 
Đêm đen 20 tuổi (thơ) 1964
Tiếng hát Việt Nam (thơ) 1965
Trường Ca Việt Nam (thơ) 1967
Lời Phản Kháng (thơ) 1967
Phía Mặt Trời Mọc (tập truyện) 1969
 
Được ghi tên trong từ điển văn học của Thanh Tùng, Khai Trí xuất bản năm 1973 tại Sài Gòn. Ra hải ngoại anh tiếp tục viết thêm những tác phẩm:
 
Đất Nước (thơ) 1985
Bằng Hữu (thơ) 1987
Văn Học Dân Gian (truyện) 1988
Tác Phẩm, Tác Giả (biên khảo) 1988
Đất Nước (thơ, tái bản) 1997
Văn Học Dân Gian (thơ, tái bản) 1999
 

Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2025

“NGẢ” VÀ “NGÔ - Lê Trọng Nghĩa


Hình ảnh: Hiểu Nghi

Khi nói về đường đi, ta thường dễ bị nhầm giữa hai từ: “ngả”“ngã”. Ví dụ: “mỗi người mỗi ngả” và “mỗi người mỗi ngã”, đâu là cách dùng chính xác?

Để làm rõ điều này, chúng tôi xin được dẫn cách giải thích của từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên. Tư liệu này có giảng: “Ngả (danh từ): Đường đi theo một hướng nào đó, phân biệt với những đường đi theo hướng khác. Tới đây đường chia làm hai ngả. Mỗi người đi một ngả… Ngã…: Chỗ có nhiều ngả đường, ngả sông toả đi các hướng khác nhau. Ngã năm. Ngã ba sông”

Như vậy “ngã” (thường phải kèm theo số) là từ để chỉ chỗ giao nhau của nhiều con đường, con sông,… còn “ngả” là một nhánh đường, nhánh sông của “ngã”.

Hiểu như thế, ta có thể thấy “mỗi người mỗi ngả” mới là cách dùng đúng chứ không phải “mỗi người mỗi ngã”, vì đây là cụm từ biểu diễn việc nhiều người vốn ở cùng một nơi nhưng lại chia tay để đi về nhiều hướng. Vậy còn “ngả rẽ” và “ngã rẽ” thì sao? Căn cứ vào định nghĩa của từ điển tiếng Việt ở trên thì “ngả rẽ” và “ngã rẽ” đều có thể được chấp nhận, nhưng hai từ này có nghĩa hoàn toàn khác nhau. “Ngã rẽ” là chỗ giao nhau của nhiều nhánh đường, nhánh sông (như ngã ba, ngã tư), còn “ngả rẽ” là một trong những nhánh đường, nhánh sông đó.

Tới đây cách dùng “ngả”“ngã” đã rõ. Nhưng sẽ thú vị hơn nếu ta biết được rằng liên quan tới đường đi, ngày trước chỉ có “ngả” chứ không có “ngã”. Thật vậy, Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của xuất bản vào cuối thế kỷ 19 có giảng: “Ngả: Nhánh đàng đi, chỉ về phía nào, ngõ nào. Ngả nào: đường nào. Ngả ba: Chỗ đường phân ra làm ba”. 
Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản năm 1931 cũng đồng tình: “Ngả: Nẻo, phía. Đi ngả nào. Ngả ba: chỗ đầu ba con đường giao với nhau”. Trong hai tư liệu này ta không thấy có nghĩa nào của “ngã” liên quan đến đường đi cả.

Như vậy có thể thấy ban đầu chỉ có “ngả” để chỉ chung cả các nhánh đường, nhánh sông và chỗ giao nhau giữa chúng. Sau này phần vì lưu truyền tam sao thất bản, phần vì để đọc cho thuận miệng nên người ta mới có thêm từ “ngã” biến âm của “ngả” và bắt đầu sử dụng cách phân biệt như từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên trình bày.

                                                                                    Lê Trọng Nghĩa

TÌM DẤU VƯỜN XƯA – Đinh Hoa Lư


Nhớ Cam Bình Thôn Tết Đinh Dậu 2017
 
TUỔI GIÀ lãng đãng trôi về như đám mây trời bềnh bồng vô định chúng ta chẳng biết đâu là điểm dừng? Mây trôi như cuộc đời người cho đến lúc nào đó thì đám mây không còn nữa nó sẽ hòa lẫn vào hư không.
 
Có thể giờ đây tôi lòng lại dặn lòng đừng đua chen, lo lắng nữa. Vốn thời gian còn lại- như bạn bè hay nói "chẳng còn hào phóng" cho chúng ta- lớp tuổi về già- nữa. Lòng từng dặn lòng, mình hãy dành những buổi sáng khi ánh dương vừa lên "chào một ngày mới" để ngồi ngắm hoa nở mây trôi, nghe chim hót líu lo trên cành mận nhánh đào cùng vài cánh bướm vàng trắng  chập chờn bay quanh như muốn thăm khóm cải, nhánh bầu cành mướp đang rộ sắc màu vàng, trắng...
 
Thế mà lạ ! tuy "bụng bảo dạ" thế nhưng tâm tôi lại mãi trôi về một khoảng trời xa xăm nào đó? Hình ảnh vườn xưa từng đơm hoa kết trái, thi nhau nở rộ cùng những ước vọng của một thời gian khi sức khỏe còn tràn, chứa chan mong ước. Giờ thì còn đâu lối cũ vườn xưa cho lớp tuổi về chiều nơi đất khách quê người? Thời gian không ai mong muốn trôi nhanh lại "ào ào" chạy đến 'trở tay chẳng kịp'?

COI NHƯ BUỒN THA THƯỚT TIỄN NGƯỜI VỀ THIÊN THU – Thơ Trần Vấn Lệ


         
         Nhà thơ Trần Vấn Lệ duyên vẽ theo yêu cầu của Nguyệt Mai


COI NHƯ BUỒN THA THƯỚT
TIỄN NGƯỜI VỀ THIÊN THU
 
Một ca sĩ qua đời, người ta thương khóc thảm!
"Cô ấy dễ thương lắm" - một câu đủ giãi bày?
 
Đời như bóng mây bay... Giọt nắng bên thềm tắt.
Còn lại vũng nước mắt.  Mưa sa sa trong lòng...
 
Thôi thì những đóa hồng nhớ nhau thời xa xứ!
Thôi thì một chút gió thổi cho nhang khói bay...
 
Vũ Hoàng Chương hồi say chắc yêu ai cũng vậy?
"Kiều Thu hề Tố hỡi em nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng!"
 
Kiều Thu là Kiều Nga phải không?
Hỡi chín phương lòng, mười phương trời với biển...
 
Một người mà quyến luyến muôn người buồn bâng khuâng!
Kiều Nga thời Thanh Xuân... bây giờ từng nốt nhạc...
 
Tiễn người đi, tiếng hát nhẹ nhàng bay áo bay...
Coi như tay cầm tay nụ hôn mừng đã vuột...
 
Coi như buồn tha thướt...
Tiễn người về Thiên Thu!
 
*
Tháng Bảy trời mưa Ngâu
Có con sông thật sâu, có mái lầu cao ngất...
 
Có mây vờn như tóc...Tóc đờ mi gạc xon...
Thương thật chớ Thanh Xuân cô em cười nhí nhảnh!
 
Bây giờ, nấm mồ lạnh,
bình nhang...
hương ngát hoa...
Kiều Thu hay Kiều Nga, Thúy Kiều thương.  Đứt ruột!
 
                                                                  Trần Vấn Lệ

VÔ ƯU – Thơ Lê Kim Thượng


   


VÔ ƯU 
1.
 
Tôi về quê Mẹ bình yên
Hương đồng gió nội, muộn phiền buông rơi
Một đời xa xứ, xa xôi
Thân nơi phố thị, hồn nơi quê nhà
Tôi về tìm lại ngày qua
Chuồn Ngô, chuồn Ớt la đà vườn bông
Con thuyền về tới bến sông
“Gió đưa cây cải…” lên ngồng xanh tươi
Ai về bến nước người ơi
Gieo vần sáu tám, vớt lời ái ân
Câu thơ lục bát bâng khuâng
Trôi theo dòng nước, ngại ngần lênh đênh
Sớm mai, khi mặt trời lên
Một ngày mới đến, bồng bềnh gió Tây
Đôi con chim hót mở ngày
Hừng đông trời tỏa hây hây nắng hồng…