Nếu như Phạm Duy có Bên Cầu Biên Giới khiến cho hàng triệu con tim khán thính giả phải bồi hồi, say sưa theo giấc viễn mơ của một chàng trai trẻ, một giấc mơ đẹp không biên giới, rất lãng mạn và tình tứ, rất bay bổng và đầy khát khao, được viết năm một ngàn chín trăm bốn mươi bảy, khi Phạm Duy vừa tròn hai mươi sáu tuổi, thì.
Thì, Nguyễn Văn Đông (1932-2018), vào năm một ngàn chín trăm năm mươi sáu, tức sau Phạm Duy mười năm, lúc Nguyễn Văn Đông vừa tròn hai mươi bốn tuổi, có Chiều Mưa Biên Giới.
Chiều Mưa Biên Giới của Nguyễn Văn Đông là một trong những sáng tác đầu tay của nhạc sĩ, và cũng là một trong những nhạc phẩm được khán thính giả bốn phương yêu mến nhứt, là ca khúc hay nhứt, thành công nhứt của ông và đem lại cho tác giả nhiều lời ngợi khen nhứt.
Chiều Mưa Biên Giới, khi vừa mới ra đời, đã trở thành hiện tượng đặc biệt vào thời điểm bấy giờ. Đặc biệt vì nhiều lẽ, vì ca khúc đã sớm vang lừng tại Pháp và Châu Âu qua giọng ca Trần Văn Trạch, vì ca khúc đã bị cấm một thời gian do lời của bài hát, nhưng bao trùm hơn cả, Chiều Mưa Biên Giới trở thành một hiện tượng đặc biệt là bởi vì giai điệu và ca từ của tác phẩm, quá xuất sắc.
Bảy mươi năm đã trôi qua, vậy mà, chỉ cần một tình cờ, đâu đó, giọng một ca sĩ xưa cất lên “chiều mưa biên giới anh đi về đâu”, là ngay lập tức, tâm hồn người nghe bỗng bị rúng động. Sự rúng động đó đến từ những âm thanh, giai điệu, lời ca thân thương, quen thuộc, trìu mến, ấm áp và đầy an ủi. Sự rúng động còn đến từ một trời kỷ niệm xưa của một miền Nam mến thương, thanh bình và yên ổn, chợt quay về.
Thường, cái gì không tìm lại được nữa, ngay cả khi, ta có thật nhiều bạc tiền, ta có thật nhiều phương tiện, kỹ thuật hiện đại, thì cái ấy sẽ trở nên quý giá vô ngần.
Bên Cầu Biên Giới, Chiều Mưa Biên Giới, Phạm Duy, Nguyễn Văn Đông, và những ngày tháng cũ, sẽ không bao giờ quay trở lại, sẽ không bao giờ lập lại, nên những thứ ấy, vô vàn quý giá.
******
Thì, Nguyễn Văn Đông (1932-2018), vào năm một ngàn chín trăm năm mươi sáu, tức sau Phạm Duy mười năm, lúc Nguyễn Văn Đông vừa tròn hai mươi bốn tuổi, có Chiều Mưa Biên Giới.
Chiều Mưa Biên Giới của Nguyễn Văn Đông là một trong những sáng tác đầu tay của nhạc sĩ, và cũng là một trong những nhạc phẩm được khán thính giả bốn phương yêu mến nhứt, là ca khúc hay nhứt, thành công nhứt của ông và đem lại cho tác giả nhiều lời ngợi khen nhứt.
Chiều Mưa Biên Giới, khi vừa mới ra đời, đã trở thành hiện tượng đặc biệt vào thời điểm bấy giờ. Đặc biệt vì nhiều lẽ, vì ca khúc đã sớm vang lừng tại Pháp và Châu Âu qua giọng ca Trần Văn Trạch, vì ca khúc đã bị cấm một thời gian do lời của bài hát, nhưng bao trùm hơn cả, Chiều Mưa Biên Giới trở thành một hiện tượng đặc biệt là bởi vì giai điệu và ca từ của tác phẩm, quá xuất sắc.
Thường, cái gì không tìm lại được nữa, ngay cả khi, ta có thật nhiều bạc tiền, ta có thật nhiều phương tiện, kỹ thuật hiện đại, thì cái ấy sẽ trở nên quý giá vô ngần.
Bên Cầu Biên Giới, Chiều Mưa Biên Giới, Phạm Duy, Nguyễn Văn Đông, và những ngày tháng cũ, sẽ không bao giờ quay trở lại, sẽ không bao giờ lập lại, nên những thứ ấy, vô vàn quý giá.
******
CHIỀU MƯA BIÊN GIỚI
1.
Chiều mưa biên giới anh đi về đâu
Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu
Kìa rừng chiều âm u rét mướt
Chờ người về vui trong giá buốt, người về bơ vơ.
Chiều mưa biên giới anh đi về đâu, là một câu hỏi tu từ, nghĩa là, hỏi mà không cần phải trả lời, không đợi câu trả lời, bởi vì, câu trả lời ấy, ai cũng biết.
Đi về đâu nữa bây giờ. Nắng, thì phải đội nắng thôi. Mưa, thì phải cõng mưa thôi. Bởi vì biên giới chính là nhà. Đầu sông, ngọn núi của biên cương, lãnh thổ chính là nơi để về, chớ còn đâu nữa.
Nhưng con người mà, dù là lính chiến hay thường dân, đôi khi, cũng vẫn có những giây phút lẩn thẩn, lơ thơ, ngơ ngơ, ngẩn ngẩn, mà người ta còn gọi là mất hồn, thế nên mới có hình ảnh, sao còn đứng ngóng nơi giang đầu.
Sao còn ư? Thì vậy chớ sao. Mặc cho rừng chiều âm u rét mướt, mặc cho rừng đang chờ người về gượng vui trong giá buốt, thì người vẫn cứ đứng ngóng thẫn thờ nơi giang đầu vậy đó. Ngóng gì ư? Thì nhớ điều gì, lòng sẽ ngóng điều ấy.
Nên, người thì ở đây mà lòng người thì rất bơ vơ!
******
2.
Tình anh theo đám mây trôi chiều hoang
Trăng còn khuyết mấy hoa không tàn
Cờ về chiều tung bay phất phới
Gợi lòng này thương thương nhớ nhớ, bầu trời xanh lơ
Người thì đang đóng quân nơi biên giới, nhưng tình thì lại lạc theo đám mây trôi chiều hoang.
Mây trôi, vốn đã không có phương nhứt định, nay, tác giả lại còn thả cho đám mây ấy trôi theo chiều hoang.
Hoang đây là hoang mang, hay hoang đây là hoang đàng, hoang đường? Hoang đây là hoang phế, hay hoang đây là hoang sơ, hoang vu? Nghĩa nào, cũng có lý. Thôi thì, chiều hoang là buổi chiều của tất cả những nghĩa ấy cộng lại vậy.
Và, tình anh cũng thế, cũng đi theo đám mây trôi chiều hoang ấy.
Trăng kia, còn lúc tròn lúc khuyết nữa là, huống hồ mây, huống hồ hoa. Mây nào rồi không tan. Hoa nào rồi không tàn. Chỉ riêng lá cờ về chiều tung bay phất phới. Khiến gợi cho lòng anh, khôn nguôi, niềm nhớ nhớ, thương thương.
Giữa bầu trời xanh lơ!
******
3.
Đêm đêm chiếc bóng bên trời
Vầng trăng xẻ đôi, vẫn in hình bóng một người
Xa xôi cánh chim tung trời
Một vùng mây nước, cho lòng ai thương nhớ ai
Khác nhiều lắm nơi phồn hoa đô hội, nơi ánh đèn dập dìu đôi lứa cầm tay, người lính chiến xa nhà, ngày đêm, chỉ với rừng sâu nước độc, chỉ với đồi núi chập chùng, chỉ với sỏi đá gót chân qua. Trên đầu là mây bay, dưới đất là bùn sình, lau cỏ. Và chỉ gió, chỉ mưa, chỉ nắng, bốn mùa, làm bạn.
Đêm đêm, chiếc bóng bên trời. Một chiếc bóng bên trời, cô đơn, nhớ về một chiếc bóng khác, xa xôi. Vầng trăng chung, chia mỗi người một nửa. Trên vầng trăng ấy, vẫn duy nhứt chỉ bóng một người, mong gởi về nhau với tất cả niềm thương, nỗi nhớ. Mơ một ngày, nước non yên vui, như cánh chim tung trời kia, giữa một vùng mây nước mênh mang kia, anh lại về thăm em.
Cho thỏa lòng thương nhớ!
******
4.
Về đâu anh hỡi mưa rơi chiều nay
Lưng trời nhớ sắc mây pha hồng
Đường rừng chiều cô đơn chiếc bóng
Người tìm về trong hơi áo ấm, gợi niềm xa xăm
Chiều nay, cũng như bao chiều khác, mưa lại rơi tầm tã. Về đâu anh hỡi, câu hỏi ấy lại vang lên trong tâm tư, vang lên trong nỗi buồn xa nhà man mác.
Về đâu ư? Người thì ở đây, nhưng tình, nhưng lòng thì hướng về nơi gia đình, nơi có em, nơi mà tình thương, nơi mà trái tim, nơi mà nỗi nhớ của tác giả, ngày đêm gởi trao về.
Mưa tạnh, lưng trời mây pha hồng màu nhớ. Đường rừng chiều vẫn tiếp tục niềm cô đơn chiếc bóng. Và lòng người chiến sĩ, lại tìm về trong hơi áo ấm thân quen.
Gợi niềm xa xăm!
******
5.
Người đi khu chiến thương người hậu phương
Thương màu áo gởi ra sa trường
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
Thì đường trần mưa bay gió cuốn, còn nhiều anh ơi.
Thời chiến là vậy đó. Người ngoài biên khu thì thương nhớ hoài người nơi thành đô lẻ bóng. Và ngược lại, chốn hậu phương cũng nhớ thương hoài người chinh chiến xa xôi.
Biết làm sao bây giờ.
Ai biểu chi, ông trời bày ra thế cuộc. Ai biểu chi, con người cứ mãi hơn thua. Ai bày chi công hầu khanh tướng. Ai bày chi địa vị lợi danh.
Lòng trần còn nhiều tơ vương thì đường trần mưa bay gió cuốn, sẽ còn nhiều.
Anh ơi!
******
KẾT
Chỉ mới hai mươi bốn tuổi, mà Nguyễn Văn Đông đã soạn được một tác phẩm có giai điệu tha thiết và đầy tình yêu thương hay đến như vậy, Chiều Mưa Biên Giới.
Chỉ mới hai mươi bốn tuổi, mà Nguyễn Văn Đông đã có thể viết được một nhạc phẩm đầy chất thơ: đêm đêm chiếc bóng bên trời / vầng trăng xẻ đôi, vẫn in hình bóng một người. Khiến cho người nghe, phải liên tưởng ngay đến một hình ảnh kẻ ở người đi rất nỗi niềm thương nhớ, từng xuất hiện trong tuyệt phẩm của Nguyễn Du: vầng trăng ai xẻ làm đôi / nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Chỉ mới hai mươi mươi bốn tuổi, mà Nguyễn Văn Đông đã có thể hiểu được bản chất của đau khổ cuộc đời là vì đâu: lòng trần còn tơ vương khanh tướng / thì đường trần mưa bay gió cuốn, còn nhiều anh ơi. Khiến cho người nghe, cảm thán nhớ về bậc quốc sĩ Ngô Thời Nhậm, mà mỗi lời thốt ra là một khí phách ngút trời: ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai / thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.
******
Người như Nguyễn Văn Đông, hiếm lắm, thời xưa thường gọi là văn võ song toàn.
Không chỉ văn võ song toàn, ông còn là người đa tài, ngoài tân nhạc, ông còn soạn nhạc và làm đạo diễn cho hơn năm mươi tuồng cải lương nổi tiếng như: Mắt em Là Bể Oan Cừu, Mưa Rừng, Nửa Đời Hương Phấn, Sân Khấu Về Khuya, và vô số những bản tân cổ giao duyên.
Ông là người phát hiện ra những giọng ca để đời như Hà Thanh, Thanh Tuyền, Giao Linh. Ông cũng được xem là người có công hàng đầu trong sự phát triển của phong trào tân cổ giao duyên. Ông cùng soạn giả Viễn Châu đã nghiên cứu lắp ráp tân nhạc và cổ nhạc sao cho ăn khớp nhau. Và ông chính là người cho ra đời cách ký âm tân nhạc và cổ nhạc.
Không chỉ thế, ông còn cùng nhạc sĩ Y Vân thực hiện công trình nghiên cứu về dân ca ba miền. Công trình đang được gởi hồ sơ đến UNESCO để xét duyệt là di sản của dân ca Việt Nam thì lúc ấy, năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm vừa đến.
Đánh giá về nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, nhà thơ Du Tử Lê viết: Hai hãng đĩa của ông đã đem lại sự giàu có, phong phú cho sinh hoạt tân nhạc cũng như cổ nhạc miền Nam, suốt hai mươi năm, với những album riêng cho từng ca sĩ. Không chỉ thế, ông còn là người có công đầu trong nỗ lực khai sinh, hình thành và phát triển một hình thái nghệ thuật mà, sau này, chúng ta quen gọi là tân cổ giao duyên.
Khi ông mất, theo di nguyện, tro cốt ông được rải ở biển Vũng Tàu, là nơi có ngôi trường Thiếu Sinh Quân, mà trong suốt năm năm, ông đã được học quân sự và học nhạc, tại đây.
Kính trọng và thương tưởng ông, Nguyễn Văn Đông, một tài hoa không tì vết!
Sài Gòn 21.03.2024
Phạm Hiền Mây
*
Nguồn:
https://www.facebook.com/profile.php?id=100010179120456
*
Nguồn:
https://www.facebook.com/profile.php?id=100010179120456
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét