1- THỜI TIỀN & TIỀN CHIẾN
Tức là thời gian từ khoảng 1900 -1945
Các sáng tác phẩm như:
Văn thơ kịch nhạc Cải Lương
Cuả các soạn giả đủ loại
Đều đuợc trả tiền nhuận bút
Đàng hoàng
Nói theo tiếng Quan Thoại là Xìn
Nói theo tiếng Ta là Địa
Chung chung dù ít dù nhiều
Các tác giả cũng đều hoan hỉ
Văn chương thời kỳ này
Gặp may lên như diều gặp gió “máy”
2- THỜI ĐANG CHIẾN
Từ 1945 đến 1975
Đánh loạn cào cào
Đánh vung xích chó
Anh khôn thì sống
Anh mống thì đi đoong
Có khi khôn dại đều đi một lượt
Văn chương kỳ này thoi thóp
Ngắc ngoải nhưng chưa thác?
Tuy nhiên cũng có nhiều vị sống bằng nghề cầm bút
Cho Nhà Nước
Viết bằng tay mặt
Còn nghiệp dư “tay trái tay quả”
Thì no địa “ze’ro”
3-THỜI KHÔNG CHIẾN
Sau 1975 tình cho không biếu không
Thơ văn sách báo CD & DVD
Chỉ cho không
Nhưng không có người nhận
Vdà không có người đọc
Đa số mắt kém và mù
Người viết thuộc loại ở không
Viết chùa và nhà thờ
Dạng tự biên tự diễn & tự dẹp
Không có giới văn nghệ văn nghoẽ chi cả
Lớp già thì đi tắm mát suối vàng
Nơi cõi âm
Lớp trẻ viết lách khó hiểu quá xá quà xa?
Bóng “đá” và ca hát được mùa
Quá nhiều nhân tài
Quá nhiếu quán & á quân
Còn bóng “đấm”
Thì chưa?
4- BIẾT ĐÂU HỎI MÀ TIỀM
Bậu xưa ghuôi? biết đâu mà tiềm
Có bậu nghỉ mệt nơi nghĩa trang Bắc Việt tương tế
Có bậu an dưỡng lão nơi nghĩa trang Trung Việt tương tế
Có bậu an cư lạc nghiệp nơi nhị tỳ Quảng Si & Đông
Có bậu hoành tráng hơn nơi Nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi
“cụ tổ bảy đời của vua Mạc Đăng Dung”
Cũng xong
Đừng bỏ em một mình
Trời lạnh lắm?
Qua còn tại ngũ bộ binh
Đi theo chiến đoàn
Đâu có bỏ ngang mà chiếu cố cho bậu được?
Thôi cũng đành
Bậu nhớ đêm đắp thêm đất cho ấm áp
Mơi mốt qua dìa? mà biết dìa đâu?
Hội ngộ với bậu nào?
Nơi địa ngục “thất”
Chu Vương Miện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét