Thời Phúc Nguyên sau khi dẹp tan nội loạn Mạc Chánh
Trung, phe Mạc chia rẽ, quyền thần Lê Bá Ly mang quân theo nhà Lê. Kế đó danh
tướng Trịnh Kiểm mấy lần xua quân ra Bắc, tướng Mạc Kính Điển cũng mang quân
vào đánh Thanh Hóa. Trong lúc hai hổ đang tranh hùng, thì Nguyễn Hoàng vào đất
Thuận Hóa, ngấm ngầm mài nanh dũa vuốt, trở thành hổ thứ ba trong tương lai.
Ngày mồng 8 tháng 5 năm Quảng Hoà năm thứ 6
[5/6/1546], Mạc Phúc Hải chết, lập con trưởng là Phúc Nguyên lên làm vua.
Phúc Nguyên giữ ngôi 16 năm, lần lượt dùng 3 niên hiệu: Vĩnh Định, Cảnh
Lịch, Quang Bảo, lấy năm sau [1547] là năm Vĩnh Định thứ nhất.
Lúc này Phúc Nguyên còn nhỏ tuổi, chưa biết định
đoạt, bao nhiêu công việc lớn nhỏ đều ủy cả vào chú ruột là Khiêm Vương Kính
Điển phân xử.
Khi Mạc Phúc Hải chết, viên tướng Tứ dương Hầu Phạm Tử
Nghi bàn rằng:
“Hiện
trong nước đương lúc nhiều nạn, nên lập vua lớn tuổi. Con Vua Đăng Dung là Hằng
Vương Chánh Trung đã nhiều phen cầm quân, và thường thắng trận. Vậy xin dựng
lên nối ngôi”.
Nhưng các vương họ Mạc, và đại thần là bọn Kính Điển,
Nguyễn Kính đều không theo, bàn định dựng Phúc Nguyên lên ngôi. Bởi thế Tử Nghi
không toại nguyện, bèn ngầm theo chí hướng khác, bí mất tụ họp các tướng
dưới quyền, rồi cùng nổi loạn. Phúc Nguyên phải rời kinh thành qua sông, chạy
về hướng đông vào ban đêm, bọn Kính Điển, Nguyễn Kính và Trần Phỉ xuất quân
đón cứu Phúc Nguyên. Tử Nghi bèn đem Chánh Trung chiếm cứ Hoa Dương [huyện
Hưng Hà, Thái Bình],[1] rồi tiếm xưng tôn hiệu, lập triều đình, các bầy tôi
văn võ nhiều người theo. Phúc Nguyên sai Kính Điển và Nguyễn Kính phát binh
đánh Tử Nghi, nhưng Tử Nghi vốn là một kiện tướng, lại thêm quân sĩ đều gắng sức,
bởi thế Kính Điển đánh mấy trận đều bị thua. Tử Nghi đưa tờ bố cáo cho các trấn,
kể tội phản nghịch của Nguyễn Kính, và tuyên bố sẽ đánh thẳng vào Đông Kinh.
Mạc Kính Điển họp binh đánh Tử Nghi, hẹn với Phụng
quốc công Lê Bá Ly giúp sức. Kinh Điển và Bá Ly hợp các đạo quân, cả thủy bộ
đều tiến, đánh phá quân của Chính Trung ở Ngự thiên. Tử Nghi đem Văn Minh,
Chánh Trung, rút chạy, chiếm cứ Yên Quảng [Quảng Ninh]. Mạc Phúc Nguyên bèn
trở về Đông Kinh. Lúc này, xứ Hải Dương bị nạn binh hỏa luôn luôn, rất nhiều
người phải lưu vong.
Mùa xuân năm Vĩnh Định thứ 1 [1547], tức Lê Trang Tông
Nguyên Hoà năm thứ 15, Minh Gia Tĩnh năm thứ 26, nhà Mạc mở khoa thi Hội, cho
Dương Phúc Tư, Phạm Du, Nguyễn Tế đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Nguyễn Kính Chỉ 8 người
đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Vũ Hiệu 19 người đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân.
Sau khi Mạc Chánh Trung thất thế, bèn cùng Mạc Văn
Minh đem gia quyến chừng hơn trăm người chạy sang Khâm Châu, vào cửa quân Lưỡng
Quảng tố cáo, kể hết tội trạng Nguyễn Kính chuyên quyền, ruồng đuổi các vị cựu
thần quốc thích. Đề đốc quân vụ Trương Nhạc bèn tâu về triều Minh, xin cứu trợ cho
bọn Chánh Trung, vua nhà Minh bèn ra lệnh quan phủ Thiều Châu và Thiệu Khánh
thu xếp cho bọn Chánh Trung cư ngụ tại xứ Thanh Viễn [Quảng Đông], chiếu theo
cấp bậc hàng năm cấp phát gạo.
Sử Trung Quốc xác nhận bọn Mạc Chánh Trung
chạy sang châu Khâm và được nhà Minh cấp dưỡng, tuy nhiên những chi
tiết như Nguyễn Kính làm loạn, muốn lập người rể là Mạc Kính Dữ không thấy
đề cập trong sử nước ta:
“Ngày 7 tháng 12 năm Gia Tĩnh thứ 26
[17/1/1548]. Trước đó vào tháng 5 năm Gia Tĩnh thứ 25 Mạc Phúc Hải bị bệnh
chết, con Hoằng Dực [Mạc Phúc Nguyên] mới 5 tuổi, bọn Tuyên phủ đồng tri Đặng
Văn Trị, Nguyễn Như Quế nhận lời trối, phụ tá Hoằng Dực trông coi dân, cùng đến
triều cáo ai, xin phong. Nhưng Di mục Nguyễn Kính làm loạn, muốn lập người rể
là Mạc Kính Dữ, rồi bọn Văn Trị không chế ngự được, con thứ của Mạc Đăng Dung
là Chính Trung lại được lập chiếm 2 phủ Hải Dương và Hải Đông. Chính Trung lại
bị Nguyễn Kính đánh bại, cùng người trong họ là bọn Mạc Văn Minh chạy sang châu
Khâm, theo lệ Đầu mục ở xa đến đầu hàng, xin cấp lương và giúp đỡ. Đề đốc Lưỡng
Quảng Quân vụ Thị lang Trương Nhạc đem việc này tâu lên, sai đưa xuống bộ Binh,
Thượng thư Vương Dĩ Kỳ tâu:
‘Nên tạm cấp dưỡng cho bọn Chính Trung, an trí
trong nội địa, sai quan trấn thủ tra khám sự tình đất này có yên ổn hay không
và sắc ấn trước đây ban nay ai giữ hãy tâu đầy đủ.’
Thiên
tử chấp thuận, mệnh các quan Đề đốc, Trấn, Tuần khám gấp rồi tâu lên rõ ràng.”
Minh
Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 225.
Năm Cảnh Lịch thứ 1 [1548], tức Lê Trang Tông Nguyên
Hoà năm thứ 16, Minh Gia Tĩnh năm thứ 27, Mạc Phúc Nguyên đổi niên hiệu
Vĩnh Định thành Cảnh Lịch năm thứ nhất.
Vào năm này, Đại Việt Thông Sử chép sự kiện
quân Phạm Tử Nghi từ Yên Quảng sang Quảng Đông cướp phá như sau:
“Sau
khi Tử Nghi đã chạy, giữ xứ Yên Quảng, y lại vào địa phận nước Tàu, khua dụ các
dân Man ở ven biển nổi loạn cướp phá, làm tao nhiễu Khâm châu và tỉnh Quảng
Đông, nhà Minh không chịu nổi, bèn truyền thư cho Phúc Nguyên rằng:
‘Nhà
ngươi vô lễ! Dung túng cho đảng nghịch cướp phá nơi biên thùy thượng quốc,
ngươi phải đem quân dẹp ngay. Nếu không thì đại quân sẽ đến hỏi tội ngươi.’
Phúc
Nguyên nhận thư trên, xiết đổi sợ hãi, bèn sai Kính Điển dẫn quân đến An Quảng
đánh Tử Nghi. Kính Điển mật sai tên tiểu tốt dụ bắt được Tử Nghi, đem chém, rồi
đưa thủ cấp tới tỉnh Quảng Đông.”
Đại
Việt Thông Sử, Lê Quí Đôn, Liệt Truyện – Nghịch Thần Truyện, tờ 53b.
Qua văn bản nêu trên, Thông Sử không chép rõ thời
gian Phạm Tử Nghi mang quân sang cướp phá tỉnh Quảng Đông, và thời gian
y bị bắt. Riêng Minh Thực Lục xác nhận Phạm Tử Nghi mang quân vào
cướp phá vùng biển hai châu Khâm, Liêm vào ngày 14 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ
28 [10/5/1549], rồi bị quân Mạc giết sau đó. Nên đến ngày 23 tháng 9 năm
Gia Tĩnh thứ 29 [1/11/1550], vua nhà Minh ra lệnh tưởng thưởng Mạc Phúc
Nguyên vì có công bắt được bọn phản tặc Phạm Tử Nghi:
“Ngày 14 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 28
[10/5/1549]. Trước đây An Nam Đô thống sứ Mạc Phúc Hải bị bệnh mất, con là
Hoằng Dực còn nhỏ tuổi, Nguyễn Kính mưu lập người rể là Mạc Kính Điển,[2] Phạm
Tử Nghi mưu lập phe mình là Mạc Chính Trung, các phe chém giết lẫn nhau. Chính
Trung bị thua, mang đồng đảng hơn một trăm người xin qui phụ, chiếu ban cho
dung nạp và mệnh các quan khám hỏi xem ai là đáng lập. Nay Tử Nghi mang tàn
binh theo Biển Đông vào, nói dối rằng Hoằng Dực đã chết, nay đem Chính Trung về
để tôn lập. Rồi mang quân cướp phá hai châu Khâm, Liêm, bắt Chỉ huy Tôn Chính,
giết Bách hộ Hứa Trấn, cả miền lãnh hải giao động. Tuần Án Quảng Đông Ngự sử
Hoàng Như Quế tâu lên, các quan cho rằng việc Chính Trung mang đồ đảng đến qui
phụ đã thu xếp xong, việc Tử Nghi vượt biển đến, làm việc ác, nên xét kỹ tình tội
để quyết định nên đánh hay chiêu phủ, còn việc tranh lập xin giao Phủ thần khám
rồi sẽ bàn riêng. Thiên tử chấp nhận và trách nặng nề các quan Tổng trấn lệnh
tiểu trừ ngay để yên ổn biên giới, nếu như lười nhác làm tổn thất sẽ bị trị tội
không tha.”
Minh Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3,
trang 226.
“Ngày 23 tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 29
[1/11/1550]. Mệnh Đề Đốc Lưỡng Quảng Thị lang Âu Dương Tất Tiến tưởng thưởng
người đáng được thế tập là Đô thống Mạc Hoằng Dực [Mạc Phúc Nguyên], công bắt
được bọn phản tặc Phạm Tử Nghi.”
Minh Thực Lục:
Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 227.
Vào tháng 4 [8/5-5/6/1548] Mạc Phúc Nguyên phong Trần
Phỉ chức Binh bộ Thượng thư Đô ngự sử, lại gia phong cho Trần Phỉ Tri quán cục,
tham dự triều chính, sau thăng tước Lai quận công. Phong Phạm Quỳnh tước Vinh
quận công, phong con trai Quỳnh là Dao tước Phú xuyên hầu. Phạm Quỳnh nguyên
quán ở làng Đặng Xá, huyện Thanh Lâm [huyện Nam Sách, Hải Dương], đến ngụ cư
tại thôn Bùi Tây, xã Thịnh Liệt, nhà nghèo làm nghề bán trà. Khi Mạc Kính Điển
lên 2 tuổi, thường đau ốm quặt quẹo luôn, muốn tìm người vú nuôi, Lê Bá Ly bèn
sai vợ Phạm Quỳnh vào cung làm vú sữa nuôi Kính Điển. Đến đây, Kính Điển giữ
chính quyền, nghĩ tới nghĩa bảo dưỡng của vợ Quỳnh, cho nên trọng dụng cả hai
cha con Phạm Quỳnh: Sai Phạm Quỳnh giữ quyền tiết chế đông đạo, cho Phạm Dao trấn
thủ xứ Sơn Nam, rồi thăng đến tước Văn quận công.
Mùa thu, Phúc Nguyên sai bầy tôi, bọn Lê Quang Bí sang
nhà Minh, dâng cống thường niên.
Phía nhà Lê vào ngày 29 tháng Giêng [9/3/1548],
vua Trang Tông mất, Thái tử Huyên lên ngôi, miếu hiệu là Trung Tông, lấy
năm sau làm năm Thuận Bình thứ nhất. Vua Trung Tông là con trưởng của Trang
Tông, ở ngôi 8 năm, hưởng dương 22 tuổi.
Năm Cảnh Lịch thứ 2 [1549], tức Lê Trung Tông Thuận
Bình năm thứ nhất, Minh Gia Tĩnh năm thứ 28, Mạc Chính Trung đã chạy vào Trung
Quốc, tố cáo tội trạng Nguyễn Kính chuyên quyền, bức hiếp đuổi bọn Chính
Trung, nên nhà Minh ngờ Phúc Nguyên không phải là dòng dõi Đăng Dung, bèn truyền
văn thư tra khám. Lúc này là thời kỳ Kính Điển vừa dẹp dư đảng của Tử Nghi
xong, các xứ Hải Dương và Sơn Nam được tạm yên. Kính Điển bèn hộ vệ Phúc
Nguyên đến Trấn nam quan, xưng tên Phúc Nguyên là Hoằng Dực, làm tờ cam kết
không giả dối, xin được tập phong chức Đô thống sứ. Lại sai bọn Lê Bá Ly đi
theo cùng, và làm tờ văn biện bạch rõ rệt, xin chiếu theo lệ trước, tâu đạt lên
triều đình, cho Phúc Nguyên được tập phong. Quan chức Lưỡng Quảng bằng lòng nhận.
Các quan lại nhà Minh thuộc tỉnh Quảng Tây lúc
bấy giờ cũng được lệnh miễn vào triều, để lo tổ chức việc tra
khám:
“Ngày 8 tháng 9
năm Gia Tĩnh Thứ 28 [28/9/1549]. Vì đang được ủy nhiệm khám An Nam, cùng điều
binh đánh Ngạn Lê tại Nhai Châu. Chiếu dụ các chánh quan tại các phủ Thái
Bình,[3] Nam Ninh,[4] Ngô Châu, Tư Châu thuộc tỉnh Quảng Tây được miễn vào triều.”
Minh Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3,
trang 227.
Vào giờ Tỵ [9-11 giờ sáng] ngày 11 tháng 4
[7/5/1549], tại các phủ Nam Sách [Hải Dương], Lý Nhân [Hà Nam], Khoái Châu
[Hưng Yên] và Trường Yên [Ninh Bình], trời bỗng tối sầm, rồi mưa đá đổ xuống sầm
sập. Có hạt mưa to bằng hòn đạn, có hạt to bằng cái hột gà, cũng có hạt to bằng
cái đấu hoặc hộc đá, làm hư hại lúa ngoài đồng, cây dâu trong vườn, phá hoại
nhà ở, chết chim ngoài đồng, người và súc vật bị thương rất nhiều.
Mùa thu, họ Mạc lấy tướng Đông đạo (không rõ tên) làm
Thiệu quốc công, tướng Bắc đạo Mạc Đình Khoa làm Gia quốc công, tướng Tây đạo
Nguyễn Kính làm thái uý Tây quốc công, Nguyễn Khải Khang làm thái uý Đoan quốc
công, đều cho vào họ Mạc, tướng Nam đạo Lê Bá Ly làm Thái tể Phụng quốc công,
cùng các thuộc hạ đều được phong để mưu giữ đất đai bờ cõi.
Bá Ly là một vị lão tướng trọng thần, chuyên giữ binh
quyền, tham dự triều chính ai cũng tôn phục. Sau khi đánh phá Phạm Tử Nghi, uy
danh càng thêm lừng lẫy. Con trai là Phổ quận công Khắc Thận, lấy trưởng công
chúa Cẩm Hương, lại giữ quyền tiết chế lộ Sơn Nam, và giữ việc trong phủ, con rể
là Văn phái hầu Nguyễn Quyện giữ vệ Cẩm y, con trai thứ là Thuần lương hầu cũng
quản đốc đội cấm binh. Thân gia là Thư quận công Thiến, chức Thượng thư Bộ lại,
Đổng giang hầu Bùi Trụ chức Tán lý quân vụ. Thân đảng kết liên, khí thế rực rỡ,
bao nhiêu hùng binh các trấn đều nắm trong tay, bao nhiêu bầy tôi văn võ đều ra
từ cửa. Phạm Quỳnh và Phạm Dao, nguyên trước xuất thân trong hàng đầy tớ nhà
Bá Ly, bây giờ được hiển đạt, lại đem lòng oán ghen, muốn tính sự hãm hại Bá
Ly.
Năm Cảnh Lịch thứ 3 [1550], tức Lê Trung Tông Thuận
Bình năm thứ 2, Minh Gia Tĩnh năm thứ 29, họ Mạc mở khoa thi Hội. Cho Trần Văn
Bảo, Trần Văn, Nguyễn Minh Dương 3 người đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Lê Khâm 4 người
đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Nguyễn Thừa Hưu 18 người đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân.
Sứ thần nhà Mạc đến biên giới Quảng Tây xin
phong tước cho Mạc Phúc Nguyên và nạp cống, nhưng triều đình nhà Minh
lấy cớ chưa nhận được kết quả hội khám, nên chưa chập nhận:
“Ngày 20 tháng
2 năm Gia Tĩnh thứ 29 [8/3/1550]. Quan
ty sở tại biên giới cho biết con cố An Nam Đô thống sứ Mạc Phúc Hải là Hoằng Dực
xin được phong tước và nạp cống như lệ cũ. Bộ Lễ tâu rằng:
‘Hoằng
Dực đáng được thế tập hay không, chưa có kết quả hội khám rõ ràng, chờ báo đến
mới có thể hứa được.’
Thiên
tử chấp thuận.”
Minh Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3,
trang 227.
Năm Cảnh Lịch thứ 4 [1551], tức Lê Trung Tông Thuận
Bình năm thứ 3, Minh Gia Tĩnh năm thứ 30, lúc này con trai Thái tể Lê Bá Ly là
Khắc Thận trấn thủ xứ Sơn Nam, đóng đồn ở Văn Sàng. Thận đương tuổi thanh niên,
chỉ ham chơi bời ca hát, ít khi làm việc, lại cất nhà cửa lộng lẫy, sắm kiệu
son, lộng vàng. Phạm Quỳnh và Phạm Dao bèn gièm với Mạc Kính Điển, bảo Khắc Thận
có mưu phản nghịch. Kính Điển ngạc nhiên bảo rằng:
“Quốc
gia trông cậy vào Tướng phụ [Lê Bá Ly] như quả núi cao, các ông không nên nói
những lời như vậy”.
Phạm Quỳnh, Phạm Dao lại đem ý trên gièm pha với Phúc
Nguyên.
Ngày 12 tháng 2 [18/3/1551], Phạm Quỳnh, Phạm Dao tự ý
sai quân vây Bá Ly ở trại Giang Mai vào lúc nửa đêm. Đến lúc gà gáy sáng, người
đầy tớ nhà Bá Lý ra ngoài, thấy có quân vây, vội trở vào báo, Bá Ly bèn thu thập
người nhà và các quân sĩ, đóng cửa cố thủ, để chờ con em đến cứu viện. Một lát,
Vạn an hầu, Văn phái hầu và Tả vệ hầu, mỗi người mang 3.000 cấm binh tới hộ vệ,
giao chiến ác liệt với quân Quỳnh, Dao. Quỳnh, Dao thua chạy, Vạn an hầu bèn
đem quân đón Bá Ly về đóng tại Thịnh Liệt, rồi Khắc Thận cũng từ đồn Văn Sàng
tới hội.
Bá Ly cùng tộc thuộc bèn dẫn quân chiếm giữ cửa quan
Châu Tước, kinh thành cực kỳ náo loạn. Phúc Nguyên thấy thế bức bách, hoảng sợ,
bỏ thành chạy qua sông, đến Bồ Đề [Gia Lâm, Bắc Ninh], rồi sai sứ thần dụ Bá
Ly bãi binh, Bá Ly không nghe, bảo phải bắt cha con Quỳnh, Dao, giải đến đây sẽ
bãi binh. Phúc Nguyên bèn sai tướng Vạn đôn hầu, Anh duệ hầu, Phù long hầu và
Văn giáp hầu, hợp binh tiến đánh Bá Ly. Bá Ly chia quân chống cự, cố thủ, rồi
sai tướng dưới trướng đem thư cầu cứu Thụy quốc công Nguyễn Khải Khang. Thụy
quốc công nhận lời, liền sai gia thần Đông khang hầu dẫn quân giúp Bá Ly, Bá Ly
bèn đánh Phúc Nguyên, quân Phúc Nguyên thua chạy, Bá Ly bèn tiến quân đến Cấu
Hà, rồi lạy vọng sang, đưa lời rằng:
“Cha
con hạ thần thực không dám mưu tính sự gì, chẳng qua chỉ vì kẻ gian thần bức
bách, ghép hạ thần là phản nghịch, chúng định hãm hại, cho nên hạ thần phải
dùng binh tự vệ. Xin bệ hạ bắt cha con Quỳnh, Dao, giải đến để úy dụ ba quân, hạ
thần xin bãi binh ngay”.
Phúc Nguyên không nghe lời yêu cầu, Bá Ly nổi giận, mắng
nhiếc Phúc Nguyên, rồi trở về kinh thành bảo các Tướng rằng:
“Ta
có chút tài mọn, nguyên thờ Quang Thiệu Hoàng đế, nhân bất đắc dĩ bèn làm bầy
tôi họ Mạc, chính tay dựng 4 đời vua [Mạc], hao phí biết bao tâm lực. Nay gặp
hôn quân, không biết minh đoán, chỉ nghe lời kẻ gièm pha, khiến cho bao nhiêu
nghĩa biển tình non, đều thành băng tang ngói trút! Sự thế đã như vậy, thôi lại
còn nói gì. Ta nghe vua Lê, chính vị ở xứ Thanh Hoa, có Thái sư họ Trịnh là một
vị anh hùng tài lược, chuyên y tá phò, ra quân có danh, bốn phương quy phụ. Đó
thực là vị chúa trung hưng vậy. Nay ta muốn dẫn quân quy thuận, tiễu trừ giặc
nghịch tán trợ triều Lê, dựng nên nghiệp lớn, để rửa tội lỗi trước, mà cũng
không mất sự giàu sang. Các ông nghĩ thế nào?”
Tất cả các tướng đồng thanh thưa:
“Kính
theo tôn mệnh!”.
Bá Ly được các tướng đồng ý, rất là mừng rỡ, rồi sai nội
thần Văn ấp hầu cùng với Tán Lý Đông giang hầu Bùi Trụ, đem văn thư đến hành điện
Ngạc Khê xin hàng, kèm theo bức họa địa hình tiến dâng. Vua Lê nhận rồi ban tờ
sắc khen ngợi Bá Ly.
Tháng 2 [7/3-5/4/1551], Bá Ly xuất 14.000 quân các đạo
Tây Nam cùng với Nguyễn Thiến, Nguyễn Quyện và con trai là Khắc Đôn, Khắc Thận
tới bái kiến nơi hành doanh Vua Lê đóng tại sách Vạn Lại. Hoàng đế xiết đổi mừng
rỡ, úy lạo và nhận cho hàng, thăng Bá Ly chức Thái tể tước Diễn quốc công. Lúc
này, Bá Ly đã 70 tuổi, một vị kỳ lão trọng thần, bầy tôi trong triều ai cũng
tôn kính. Khi vào yết kiến Thái sư Lương quốc công Trịnh Kiểm, Bá Ly giữ hết lễ,
rất cung kính. Thái sư tiếp đãi cũng rất kính cẩn và tận lễ.
Sau khi Lê Bá Ly quy thuận, nhiều mưu thần mãnh tướng
ùa theo. Cháu rể Bá Ly là Khổng Lý và Đặng Huấn, người xã Lương Xá, huyện
Chương Đức, cũng theo vào bái yết Thái sư ở cửa quân, Thái sư đều hậu đãi. Tướng
Tây đạo Đoan quốc công Nguyễn Khải Khang, khi trước sai tướng đem quân giúp Bá
Ly, nay cũng mang 3.000 quân dưới trướng quy thuận, tới yết Hoàng đế ở hành điện
Vạn Lại. Hoàng đế úy lạo ban thưởng, cho giữ chức tước cũ. Khi Khải Khang tới
bái yết Thái sư, Thái sư kính nể tước vị cao, nên tiếp đãi rất nồng hậu. Từ
đây, thanh thế quân nhà vua rất lừng lẫy. Mạc Phúc Nguyên thấy vậy, lấy làm lo
sợ, đem binh quyền ủy cho Kính Điển, để tính kế bảo vệ kinh đô và các xứ miền
Đông.
Tháng 4 [6/5-3/6/1551], vua Lê cho là Phúc Nguyên hiện
bị bầy tôi lìa bỏ, bèn bàn nên thừa lúc địch suy, xuất quân tiến đánh, liền ban
tờ chiếu điều động các tướng đánh Phúc Nguyên: Sai Phụng quốc công Lê Bá Ly
xuất đường Sơn Nam, Đoan quốc công Nguyễn Khải Khang xuất đường Sơn Tây, Gia quốc
công Vũ Văn Mật[5] tại Tuyên Quang xuống, hội đồng tại Đông Kinh. Bá Ly làm tờ
quốc thư bằng chữ Nôm để chiêu dụ các tướng nhà Mạc.
Tháng 5 [4/6-3/7/1551], Thái sư Trịnh Kiểm xuất quân
tự Hưng Hóa qua đò sông Thao đến An Lạc, cùng với Vân Mật tiến đóng tại núi, rồi
đánh phá quân Kính Điển, thẳng tới Xuân Canh, thắng luôn mấy trận nữa. Bá Ly,
Khải Khang và Văn Mật chia làm ba đường tiến đánh, cũng đều phá được các tướng
khác của họ Mạc. Thế quân Lê rất mạnh, Phúc Nguyên sợ hãi, đang đêm bỏ kinh
đô chạy tới Kim Thành [Hải Dương], chỉ lưu Kính Điển ở lại làm tướng Đô đốc,
chống giữ bờ Bắc sông Bồ Đề. Quân vua Lê bèn khôi phục Đông kinh, sĩ dân hào kiệt
nối tiếp qui phụ. Thái sư cùng các Tướng hội cả ở kinh sư, mở đại yến khao thưởng.
Lúc này quân thắng trận liên tục, một dãy núi phía Tây Nam và các phủ Thường
Ứng, Lý Quốc và Quảng Oai [Sơn Tây] đều thuộc bên nhà Lê. Về bên Mạc chỉ có 2
đạo Đông Bắc, bắt dân các làng lệ thuộc vào các doanh trại, từ sông Bồ Đề trở
lên phía Bắc, cho đắp lũy đất, đặt thuyền chiến, quân thủy quân bộ đóng xen kẽ
nhau, phòng thủ rất nghiêm nhặt!
Bọn Bá Ly và Nguyễn Khải Khang tính rằng: Hiện Phúc
Nguyên đã chạy lên Kim Thành, thì khí thế đã xuống lắm, dù có lưu quân phòng thủ,
cũng không đáng làm lo ngại cho ta. Nếu bây giờ đón Hoàng thượng tiến ngự tại
kinh thành, thì nhân tâm rất hưởng ứng, hào kiệt sẽ đều qui phụ, nhân giữ trung
châu mà hiệu lệnh bốn phương, để quét hết bọn giặc tàn, thì công khôi phục sẽ
có thể tính từng ngày. Bèn sai người tâu báo thắng trận và dâng tờ biểu đón
Hoàng đế ra ngự Đông Kinh.
Thái sư thì cho rằng: Hiện đảng giặc hãy còn khá nhiều,
chúng có thể kêu viện binh các nơi đến đông đảo, quân ta vào sâu nơi trọng địa,
nếu chúng đón đánh chặn ngang, thì dù có lấy được Đông Kinh cũng khó lòng giữ
nổi. Vả chăng lúc này nhân tâm cũng chưa hướng hết về mình, chi bằng hãy giữ vững
nơi căn bản đã, chưa nên khinh động.
Bởi thế Thái sư không ký tên vào tờ biểu trên. Khi
Hoàng thượng xem tờ biểu của các tướng không thấy tên ký của Thái sư, ngài biết
ngay Thái sư tất có ý kiến khác, bèn hạ tờ chiếu cho các tướng kéo quân về. Trước
khi quân nhà Lê lui binh, Phúc Nguyên đã sai tướng Khánh quốc công dẫn thủy
quân tự Đông Nam ngược dòng tiến lên, đóng sẵn tại núi Công, định đánh ngang
vào hậu quân nhà Lê. Nhưng Thái sư hồi binh tiến đánh, phá tan rồi cùng bọn Bá
Ly trở về Thanh Hóa, Văn Mật thì trở về Tuyên Quang. Sau khi quân nhà Lê đã
lui binh, Phúc Nguyên lại chiếm Đông Kinh. Kính Điển sai bộ binh đóng đồn tại
Yên Mô [Ninh Bình], thủy binh đóng đồn ở cửa Thần Phù [Ninh Bình], các xứ Sơn
Nam, Sơn Tây lại thuộc về họ Mạc.
Về phía nhà Minh, sau thủ tục hội khám lâu
dài, vào năm nay phong Mạc Hoằng Dực, tức Phúc Nguyên, chức An Nam Đô
thống sứ:
“Ngày 16 tháng 3 năm Gia Tĩnh thứ 30
[21/4/1551]. Mệnh con trai cố An Nam Đô thống sứ Mạc Phúc Hải là Hoằng Dực
thế tập chức của cha. Trước kia Mạc Phúc Hải chết, con trai là Hoằng Dực đáng
được lập. Lúc bấy giờ người trong họ là bọn Mạc Chính Trung nhân Dực còn nhỏ,
muốn thừa cơ đoạt chức, mà bọn quan là Phạm Tử Nghi lại hùa giúp. Nhờ viên quan
Lê Bá Ly mang binh ủng hộ, Hoằng Dực mới khỏi chết. Chính Trung kế cùng lực kiệt
xin lưu vong tại Trung Quốc, được chiếu chỉ cho tạm an sáp. Tử Nghi cũng ngầm đến
tá túc tại các xứ như Vĩnh An, lâu rồi lại xâm nhiễu nội địa, đặt lời gây loạn.
Riêng
Hoằng Dực dâng biểu nạp cống, lại bắt được bọn Tử Nghi, đặt đầu lâu vào hộp để
dâng công, lại xin đưa Chính Trung trở về nước để vẹn toàn sự hòa mục. Lúc này
triều đình mới biết Hoằng Dực an toàn, bèn sai quan Phủ Trấn tại Lưỡng Quảng
khám lại rồi tâu lên. Nay Đề đốc Thị lang Dụng Diên tra rõ Hoằng Dực thứ bực,
rõ ràng đáng chuẩn cho thừa tập, các phương vật nguyên cống đợi sau khi chấp
thuận cho thế tập sẽ tiến dâng. Tên giặc Phạm Tử Nghi đã bị Hoằng Dực bắt rồi
đem hiến, chứng tỏ cung kính cần mẫn, xin tưởng thưởng thêm, nhưng việc xin đưa
Chính Trung về An Nam, thì e rằng Hoằng Dực mới nối chức, quyền chưa định, có
thể sinh mối tranh giành khác, nên vẫn tiếp tục an sáp tại đây, đợi Hoằng Dực
thừa tập một vài năm rồi cho trở về.
Bộ
Binh đồng ý sự phân xử, phúc tấu như lời bàn. Thiên tử bèn ra sắc mệnh Hoằng Dực
thế tập chức Đô thống sứ, giữ gìn sắc ấn, kỳ dư đều chấp nhận như trên.Về việc
Tuần phủ Ngự sử Tiêu Thế Diên trình công lao của các quan trong việc Tử Nghi bị
bắt, bộ Binh cũng phúc tấu xin ban thưởng. Thiên tử phán:
‘Phạm
Tử Nghi là tên giặc ở bước đường cùng tại An Nam, phá phách lãnh thổ ta, các
quan không kịp thời tiễu trừ, lại phải điều thêm quan quân, lao phí không ít.
Tuy đã bị bắt, có thể chấp nhận thưởng, nhưng rồi do Hoằng Dực gói đầu đem hiến.
Làm sao có thể bàn công cho đúng, không để sự ra ân quá lạm.”
Minh Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3,
trang 229.
Năm Cảnh Lịch thứ 6 [1553], tức Lê Trung Tông Thuận
Bình năm thứ 5, Minh Gia Tĩnh năm thứ 32, nhà Mạc mở khoa thi Hội, cho Nguyễn
Lượng Thái, Hoàng Tuân, Trần Vĩnh Tuy đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Nguyễn Nghĩa Lập 5
người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Nguyễn Công Tộc 12 người đỗ Đồng tiến sĩ xuất
thân.
Phía nhà Lê, vua dời hành tại đến xã Yên Trường,
thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá ngày nay.
Năm Quang Bảo thứ 1[1554], tức Lê Trung Tông Thuận
Bình năm thứ 6, Minh Gia Tĩnh năm thứ 33, Mạc Phúc Nguyên đổi niên hiệu Cảnh Lịch
thành Quang Bảo năm thứ nhất.
Phía nhà Lê, Thái sư Lượng quốc công Trịnh Kiểm dời
hành dinh đến Biện Thượng, tức làng Bồng Thượng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh
Hoá. Lúc này khí thế quân sĩ đang lên, bèn sai các tướng kinh lược Hóa châu,
Đàm Bá và Hoàng Bôi, chiếm cứ đầu nguồn, đánh dẹp quân cố thủ. Quan quân bình
định các huyện, các thổ hào và các quan lại do nhà Mạc bổ nhiệm đều hàng phục.
Hương dương bá Nguyễn Đức Trung qui thuận. Bèn tăng quân đánh gấp, phá tan
quân chống cự, giết chết Phạm Bôi, bình định cả hai xứ Thuận [Bình Trị
Thiên], Quảng [Quảng Nam]. Tham Tướng Phạm Khắc Khoan lại xuất quân chống cự,
cũng bị thua và chết trận. Sau khi bình định hai xứ này, Thái sư dùng các hào
mục và sinh viên trong xứ, bổ nhiệm vào các chức vụ, nên địa phương này được
yên.
Nhà Vua mở chế khoa,[6] chọn kẻ sĩ. Cho bọn Đinh Bạt
Tuy 5 người đỗ Đệ nhất giáp chế khoa xuất thân, bọn Chu Quang Trứ 8 người đỗ Đệ
nhị giáp đồng chế khoa xuất thân. Ngày mồng một tháng 10 [26/10/1554], cho
Kim ngô vệ chưởng vệ sự Quảng quận công Phạm Đốc làm Thái bảo.
Tháng 8 năm Quang Bảo thứ 2 [17/8-15/9/1555], tức Lê
Trung Tông Thuận Bình năm thứ 7, Minh Gia Tĩnh năm thứ 34, Mạc Kính Điển
mang đại quân thủy bộ vào đánh phá Thanh Hóa, bị Thái sư Trịnh Kiểm
điều động phục kích tại những địa điểm quan trọng dọc sông từ các
huyện Vĩnh Lộc, Yên Định xuôi phía nam đến huyện Đông Sơn, khiến quân
Mạc thua to, bị giết mấy vạn, Kính Điển phải thu tàn quân trở về
kinh sư:
“Tháng
8, họ Mạc sai Khiêm Vương Mạc Kính Điển đem quân vào cướp Thanh Hoá, lấy Thọ quận
công (không rõ tên) tiết chế quân Nam đạo, đem hơn 100 chiếc thuyền làm tiên
phong, tiến đến cửa biển Thần Phù [Ninh Bình] đóng dinh. Hôm sau, Kính Điển
đem quân đến hội ở sông Đại Lại [sông Lèn, huyện Yên Định, Thanh Hóa],[7]
sai Thọ quận công đốc suất quân bản bộ đi trước, đóng dinh ở núi Kim Sơn.
Thái
sư Lượng quốc công Trịnh Kiểm đại hội các tướng bàn rằng:
“Giặc
cậy đông khinh ta, ta dùng kế mai phục đợi chúng, thế nào cũng bắt được.”
Bèn sai người dặn trước dân chúng hai bờ sông
không được kinh động, ai nấy cứ vững yên như cũ. Lại sai trung quan là Thái uý
Hùng quốc công Đình Công đốc suất bọn hàng tướng Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang,
Nguyễn Thiến, Lê Khắc Thận cùng binh tướng bản bộ mai phục sẵn ở phía nam sông,
trên từ núi Yên Định [huyện Yên Định], dưới đến núi Quân Yên [huyện Yên
Định]. Thái sư Trịnh Kiểm đích thân đốc suất đại quân mai phục ở phía bắc
sông, trên từ núi Bạch Thạch [huyện Đông Sơn], dưới đến núi Kim Sơn, lại chọn
50 con voi phục ở chân núi Kim Sơn. Lại sai Quảng quận công Phạm Đốc đem thuỷ
quân và chỉ huy bọn hàng tướng Nguyễn Quyện đem hơn 10 chiếc thuyền chiến chiếm
cứ mạn thượng lưu từ sông Hữu Chấp [huyệnVĩnh Lộc] đến sông Kim Bôi [huyện
Vĩnh Lộc], đi đi lại lại làm thế ỷ dốc. Hôm sau, giờ Tỵ [9-11 giờ sáng],
thuyền giặc qua Kim Sơn, đến chợ Ông Cung [làng Bồng Thượng, huyện Vĩnh
Lộc]. Trong chiến thuyền, nghe tiếng đàn sáo ca hát, như vào chỗ không người.
Gần trưa, nghe một tiếng súng nổ ở núi Quân Sơn, dọc hai bờ sông liên tiếp có bảy
tiếng súng đáp lại. Thái sư Trịnh Kiểm tung quân đánh lớn, voi ở hạ lưu đã qua
sông. Binh thuyền của bọn Phạm Đốc, Nguyễn Quyện đã thuận dòng mà xuống. Binh
tượng hai bên bờ hăng hái tranh nhau tiến lên trước. Quân giặc quay ngược giáo,
vứt bỏ áo giáp, chiến thuyền, nhảy xuống sông trốn chạy. Thọ quận công tự liệu
không thể thoát được, nhảy xuống sông trốn, bị Triều quận công Vũ Sư Thước bắt
sống. Quân Mạc bị bắt rất nhiều. Trói Thọ quận công trên lưng voi đem nộp ở cửa
dinh cùng với mấy chục viên tướng giặc lớn nhỏ đã bắt được. Quân giặc chết nhiều,
xác nghẽn cả sông, nước sông đỏ lòm. Thu được khí giới nhiều không kể xiết. Mấy
vạn quân giặc chết gần hết. Kính Điển sợ vỡ mật, thu nhặt tàn quân quay về Kinh
sư. Thái sư dâng biểu báo tin thắng trận, vua sai chém hết vài chục tên tướng
giặc như bọn Thọ quận công ở núi Đồng Lộc.”
Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 16, trang 11 b.
Năm Quang Bảo năm thứ 3 [1556], tức Lê Trung Tông Thuận
Bình năm thứ 8, Minh Gia Tĩnh năm thứ 35, nhà Mạc mở khoa thi Hội. Cho Phạm Trấn,
Đỗ Uông và Nguyễn Nghiêu Tá đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Phạm Viết Mậu 4 người đỗ Tiến
sĩ xuất thân, bọn Nguyễn Nhân An 7 người đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân.
Phía nhà Lê, vào ngày 24 tháng Giêng [5/3/1556],
vua Trung Tông băng, không có con nối dõi. Thái sư Lượng quốc công Trịnh Kiểm
bàn với các đại thần rằng: Nước không thể một ngày không có vua. Liền sai người
đi tìm con cháu họ Lê để lập, tìm được cháu bốn đời của Lam quốc công Lê Trừ
[anh thứ hai Vua Lê Thái Tổ] là Lê Duy Bang ở hương Bố Vệ, huyện Đông Sơn,
Thanh Hóa, đón về lập làm vua, lấy năm sau làm năm Thiên Hựu thứ nhất, tôn
xưng miếu hiệu là Anh Tông.
Mùa xuân năm Quang Bảo năm thứ 4 [1557], tức Lê Anh
Tông năm Thiên Hựu thứ nhất, Minh Gia Tĩnh năm thứ 36, nhà Mạc lấy Khiêm Vương
Kính Điển kiêm chức Tông nhân lệnh.
Tháng 7 [26/7-23/8/1557], Mạc Kính Điển đem quân xâm
phạm Thanh Hóa, đến cửa Thần Phù [Ninh Bình] và vùng Tống Sơn [huyện Hà
Trung, Thanh Hóa], Nga Sơn [Thanh Hóa], đốt phá cầu phao. Thái sư Trịnh Kiểm
sai Thanh quận công giữ Nga Sơn, Thuỵ quận công Hà Thọ Tường giữ Tống Sơn, quân
Mạc không tiến lên được. Thái sư đích thân chỉ huy binh tượng, ngầm tiến đến
chân núi Yên Mô [Ninh Bình] thẳng tới cửa biển, gặp giặc, tung quân ra đánh, lại
đánh úp phía sau, trên dưới đánh kẹp vào. Thái sư sai người huyện Hoằng Hoá là
Vũ Lăng hầu lao thuyền xông vào đánh, gặp thuyền Mạc Kính Điển, Vũ Lăng hầu
tung người nhảy qua, vung gươm chém người cầm dù đứt làm hai đoạn rớt xuống
sông. Kính Điển trở tay không kịp, nhảy xuống sông trốn thoát. Quân Mạc đại bại,
bỏ thuyền chạy trốn vào núi rừng.
Kính Điển chỉ thoát được thân, vào hang núi ẩn náu 3
ngày, đói quá, ban đêm thấy cây chuối trôi qua cửa hang, liền ôm chuối trôi
theo dòng để tìm đường về. Vài ngày sau, đến sông Yên Mô [huyện Yên Mô, Ninh
Bình], gặp người đánh cá ở xã Trà Tu [huyện Yên Mô, Ninh Bình] cứu thoát. Đến
khi về, Kính Điển xin cho người ấy làm Phù Nghĩa hầu.
Khi Kính Điển vào đánh Thanh Hoá thì Mạc Phúc Nguyên
sai bọn Phạm Quỳnh, Phạm Dao vào đánh Nghệ An. Tháng 8 [24/8-22/9/1557], Trịnh
Kiểm phá tan quân của Mạc Kính Điển, tước lấy chiến thuyền, giả làm quân Mạc
kéo vào đánh quân Phạm Quỳnh, Phạm Dao ở Nghệ An. Bọn Quỳnh, Dao không đề
phòng, bị đại bại, bèn trốn về kinh.
Năm này, hàng tướng Mạc là Lê Bá Ly, Nguyễn Thiến chết.
Con của Thiến là bọn Nguyễn Quyện, Nguyễn Phủ lại trốn về với họ Mạc. Họ Mạc
phong Quyện làm Văn Phái hầu, Phủ làm Phù Hưng hầu, đem con gái tôn thất gả
cho.
Tháng 9 [23/9-21/10/1457], Thái sư Trịnh Kiểm đem 5 vạn
quân thuỷ bộ đánh ra miền giữa Sơn Nam. Đến sông Phụng Xí [Nam Định] bắc cầu
phao qua sông, phá tan quân Mạc, bắt sống tướng Mạc là Khánh quốc công trên
thuyền, quân Mạc tan vỡ. Thái sư Trịnh Kiểm để Khánh quốc công trên voi, sai đi
theo quân để hiến kế. Sau Khánh quốc công mưu phản, việc tiết lộ, bị giết. Quan
quân đánh dẹp huyện Giao Thuỷ ở mạn dưới Sơn Nam. Thái sư tự mình chỉ huy bộ
binh, sai bọn Phạm Đốc chỉ huy thuỷ quân, lấy Vũ Lăng hầu làm Tiền Thuỷ đội,
tung quân đánh lớn.
Họ Mạc sai Nguyễn Quyện chống giữ ở sông Giao Thủy
[Nam Định]. Quyện và Vũ Lăng hầu đánh nhau to. Vũ Lăng hầu rướn mình nhảy sang
mui thuyền của Quyện trước. Quyện cầm gươm chém, Vũ Lăng hầu nhảy xuống sông lặn
đi. Quyện vội nhảy sang thuyền của Vũ Lăng hầu, chém được đầu của người cầm dù
rồi hô lớn:
“Đầu
Vũ Lăng hầu đây, lũ chúng mày địch sao nổi ta”.
Các quân nghe nói thế, không kịp ngoảnh lại nhìn, nhảy
cả xuống sông. Toàn quân tan vỡ, bỏ thuyền nhảy lên bờ tháo chạy. Quân Mạc thừa
thắng đuổi đánh, dân các huyện đều hưởng ứng theo, Thái sư ra lệnh rút quân
gấp. Họ Mạc sai tướng đem quân chặn lối về, quân sĩ phần lớn bị hại, chiến tướng
bị giết đến vài chục viên; thuyền bè, khí giới phải vứt bỏ hết, sĩ tốt chạy
thoát được còn độ một nửa.
Tháng 10 [22/10-20/11/1557], Thái sư đem quân về Thanh
Hóa, sai các tướng chăm sóc quân lính, chế tạo chiến khí, tuyển tráng đinh,
biên chế vào quân ngũ cho đủ số quân để mưu đánh lần sau. Lúc này mưa to kéo
dài hàng tháng không tạnh, Thanh Hoa, Nghệ An đồng lúa phần lớn bị ngập nước,
mùa màng bị mất, do vậy vua xuống chiếu đổi năm sau thành năm Chính Trị thứ nhất.
Năm Quang Bảo thứ 5 [1558], tức Lê Anh Tông Chính Trị
năm thứ nhất, Minh Gia Tĩnh năm thứ 37, phía nhà Lê, Thái sư Trịnh Kiểm
đích thân đốc suất đại quân ra miền giữa trấn Sơn Nam, lừa đánh bất ngờ, bắt
sống tướng Mạc là Anh Nhuệ hầu đưa về hành tại Yên Trường [huyện Thọ Xuân,
Thanh Hóa], sai đem chém. Lập trường thi Hương ở xã Đa Lộc, huyện Yên Định,
Thanh Hóa.
Tháng 9 [11/10-9/11/1558], sau khi chiếm được Sơn
Nam, Thái sư trở về Thanh Hóa, để hàng tướng Nguyễn Khải Khang ở lại trấn thủ,
chiêu tập dân chúng. Sau đó nhà Mạc dùng mưu sai người địa phương trá hàng để
dụ, Khải Khang phản bội quay về, phía Mạc dùng xe xé xác Khang.
Tháng 10 [10/11-9/12/1558], Thái sư Trịnh Kiểm vào chầu,
dâng biểu xin đưa con thứ của Chiêu huân tĩnh công Nguyễn Kim là Đoan quận
công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hoá [Bình Trị Thiên] để đề phòng
nhà Mạc. Lúc này nhà Lê tuy đã lấy được đất Thuận Hoá, nhưng nhiều người ở
đó vẫn vượt biển đi theo họ Mạc, hoặc đưa quân Mạc đến phá phía sau của quân
nhà Lê.
Ngoài ra sau khi Nguyễn Kim chết, binh quyền về tay
Trịnh Kiểm. Hai người con trai của Nguyễn Kim thì một người là Lãng quận công
Nguyễn Uông đã bị Trịnh Kiểm mưu sát, riêng Đoan quận công Nguyễn Hoàng lo cho
số phận của mình. Bấy giờ Quận công nghe tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm, người làng
Trung Am, xứ Hải Dương, đỗ Trạng nguyên triều Mạc, làm đến chức Thái bảo về trí
sĩ, giỏi nghề thuật số, nên ngầm sai người tới hỏi. Bỉnh Khiêm nhìn núi non bộ
trước sân ngâm lớn rằng: “Hoành sơn nhất
đái, vạn đại dung thân” [nghĩa là: Một dải núi ngang có thể dung thân muôn
đời được]. Sứ giả đem câu ấy về thuật lại. Quận công Nguyễn Hoàng hiểu ý,
bèn nhờ chị ruột Ngọc Bảo là vợ Trịnh Kiểm, xin cho vào trấn thủ Thuận Hoá.
Trịnh Kiểm cũng muốn trừ bỏ mối lo bên cạnh mình, nên đồng ý cho đi. Nguyễn
Hoàng đem quân thủ hạ của mình vào Thuận Hoá, đóng dinh ở gò Phù Sa, xã Ái Tử
[huyện Triệu Phong, Quảng Trị]. Mọi việc của xứ này, không cứ lớn hay nhỏ,
và các ngạch thuế đều giao cả cho, hàng năm đến kỳ hạn thì thu nộp.
Mùa xuân năm Quang Bảo năm thứ 6 [1559], tức Lê Anh
Tông năm Chính Trị thứ 2, Minh Gia Tĩnh năm thứ 38, nhà Mạc mở khoa thi Hội.
Cho Đặng Thì Thố đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Nguyễn Đạt Thiệu 4 người đỗ Tiến sĩ xuất
thân, bọn Nguyễn Thầm 14 người đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân. Bấy giờ quân Mạc bị
thua luôn, Phúc Nguyên hoang mang lo sợ, bỏ thành Thăng Long, dời ra ở ngoài cửa
Nam.
Tháng 3 [8/4-6/5/1559], nhà Lê sai quan đạc chi bộ
Hộ Văn Toàn tử Lê Trọng Nguyên đi khám đo ruộng đất công và tư ở Thanh Hóa,
Nghệ An, để định ngạch thuế. Tháng 8 [2/9-30/9/1559] ở Thanh Hóa, Nghệ An, nước
lũ tràn ngập, đê điều, đường sá bị vỡ, trôi mất vài trăm nhà. Trong thành Tây
Đô bị ngập, kho tàng phần nhiều ngập nước, nhân dân đói kém.
Tháng 9 [1/10-29/10/1559], Thái sư bảo cử viên tướng
cùng họ là Phong quận công Trịnh Quang trông coi ngự bình, Phù quận công Lê Chủng
làm Tổng trấn đạo Thanh Hóa, trấn giữ binh dân, bọn Triều quận công Vũ Sư Thước,
An quận công Lại Thế Khanh cùng đem tinh binh trấn giữ cửa biển để phòng chống
giặc. Thái sư chỉ huy hơn 6 vạn đại quân, nói phao là 12 vạn, đích thân đi đánh
miền bắc để mưu việc khôi phục. Đại quân từ Thiên Quan [huyện Nho Quan, Ninh
Bình] ra miền thượng lộ Sơn Tây. Quân đi đến đâu, không mảy may xâm phạm của
dân, nên dân chúng đều thuận lòng tuân phục, mọi người tranh nhau đem rượu thịt
lúa gạo cấp cho quân. Khi đến Tuyên Quang, Hưng Hoá, tướng Tây đạo là Quận công
Đặng Định đem quân đến họp bàn tiến quân, vượt sông Thao đánh chiếm các xứ
Thái Nguyên, Lạng Sơn, Kinh Bắc. Viên tướng biên thùy Gia quận công cũng quy
thuận triều đình, nguyện xin cấp quân đánh giặc. Lại sai Đặng Định trấn giữ An
Tây [Hưng Hóa] và Vũ Văn Mật trấn giữ Đại Đồng [Yên Bái] củng cố cõi
phiên trấn cùng mở đường từ Thiên Quan nối liền với Hưng Hoá, Tuyên Quang,
thông đến Kinh Bắc để vận tải lương thực cung cấp cho quân.
Tháng 10 [30/10-28/11/1559], Thái sư Trịnh Kiểm thống
lĩnh binh tướng đi đánh dẹp các xứ Kinh Bắc, đóng dinh ở phủ Thuận An [Bắc
Ninh], cầm cự với quân Mạc, sau lại dời đến đóng ở núi Tiên Du [huyện Tiên Du,
Bắc Ninh]. Tháng 11 [29/11-28/12/1559], Thái sư chia quân đi đánh các phủ Khoái
Châu [Hưng Yên], Hồng Châu [Hải Dương] các huyện Siêu Loại [Bắc Ninh], Văn
Giang [Hưng Yên], quân đến các nơi đều chiến thắng. Tháng 12
[29/12/1559-26/1/1560], Thái sư lại chia quân tiến đánh các phủ Khoái Châu, Hồng
Châu, Nam Sách [Hải Dương] quân Mạc nghe tin đều bỏ chạy.
Tháng Giêng năm Quang Bảo năm thứ 7 [27/1-25/2/1560],
tức Lê Anh Tông năm Chính Trị thứ 3, Minh Gia Tĩnh năm thứ 39, Thái sư Trịnh Kiểm
sai các tướng đem quân đi đánh phá các phủ Hồng Châu, Khoái Châu, Tiên Hưng
[các huyện Hưng Hà, Đông Hưng, tỉnh Thái Bình], đánh đâu được đấy. Năm này được
mùa lớn, hạ lệnh cho dân địa phương đã quy thuận ở các huyện thuộc trấn Kinh Bắc
nộp lúa để cung cấp cho quân lính.
Tháng 2 [26/2-26/3/1560], Mạc Phúc Nguyên sai tướng
đem quân giữ thành Thăng Long, bên ngoài đóng đồn một dải dọc sông về phía tây,
trên từ ngã ba Bạch Hạc, dưới đến Nam Xang [Phủ Lý, Hà Nam], dinh trại liền
nhau, thuyền ghe san sát, ban ngày thì phất cờ dóng trống báo nhau, ban đêm thì
đốt lửa làm hiệu cho nhau để chống giữ. Thái sư Trịnh Kiểm chia quân cho các tướng
đi đánh các huyện Đông Triều [Quảng Ninh], Giáp Sơn [Kinh Môn, Hải Dương],
Chí Linh, An Dương [Hải Phòng] ở miền đông, đều lấy được cả. Nhà Mạc cho
tạm dời đô ra ở huyện Thanh Đàm [Thanh Trì, Hà Nội].
Tháng 3 [27/3-24/4/1560], Thái sư Trịnh Kiểm sai bọn
Vinh quận công Hoàng Đình Ái đem quân trấn giữ Lạng Sơn. Vị quận công Lê Khắc
Thận trấn giữ Thái Nguyên, Gia quận công Vũ Văn Mật trấn giữ Tuyên Quang.
Quân đóng liền nhau để cứu viện cho nhau, ngày đêm tiến công các phủ huyện Phú
Bình [Thái Nguyên], Văn Lan [Lạng Sơn]. Lại sai Định quận công trấn giữ Hưng
Hoá, chiêu tập vỗ yên cư dân các châu cùng tư cấp binh lương. Từ Thiên Quan đến
Kinh Bắc đường liền không dứt.
Tháng 4 [25/4-24/5/1560], Thái sư Trịnh Kiểm đóng quân
ở phía nam núi Lãm Sơn [Quế Võ, Bắc Ninh]. Bấy giờ, quan quân cầm cự nhau với
tướng Mạc liền năm không dứt, Thái sư Trịnh Kiểm lại chia quân đi đánh phá các
vùng Thanh Miện, Gia Phúc [huyện Gia Lộc, Hải Dương], Hồng Châu, Khoái Châu,
do vậy uy danh chấn động.
Tháng 3 năm Quang Bảo năm thứ 8 [16/3-13/4/1561], tức
Lê Anh Tông năm Chính Trị thứ 4, Minh Gia Tĩnh năm thứ 40, nhà Mạc sai tướng
điều quân đến Kinh Bắc chống nhau với Thái sư Trịnh Kiểm, trong khi đó ngầm
sai Mạc Kính Điển đem quân vào đánh Thanh Hóa, đến tận cửa biển. Bấy giờ, các
tướng trấn giữ là Triều quận công Vũ Sư Thước và An quận công Lại Thế Khanh đều
bỏ dinh trại rút về, Phù quận công Lê Chủng thì quân vỡ, tháo chạy, đem quân chạy
vào sách Vạn Lại, cửa Yên Trường [huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa]. Gia thuộc của
Thái sư và vợ con của các tướng chạy vào sách Thuỷ Đả để lánh nạn. Thế giặc
hung hăng, dân chúng phần nhiều phải lưu tán. Tháng 9 [9/10-6/11], quân Mạc
đánh vào cửa Yên Trường, đến sách Vạn Lại, sắp lấy được kho công. Bọn Vũ Sư Thước,
Lại Thế Khanh hợp sức cố đánh, tung quân mai phục đánh thắng liền mấy trận,
chém được hơn trăm thủ cấp giặc. Quân Mạc tan vỡ tháo chạy. Quan quân thừa thắng
đuổi theo, Mạc Kính Điển phải rút quân về Kinh.
Thái sư Trịnh Kiểm liền đem quân về Thanh Hoa, lạy
chào vua ở hành tại Yên Trường, cáo thắng trận xong, đóng quân ở Cao Mật, phía
nam thành Tây Đô, thưởng công đánh giặc.
Tháng 12 [5/1-3/2/1562], nhà Mạc sai Thái bảo Nguyễn
Phú Xuân và Lại bộ Tả thị lang Giáp Trưng dẫn quân đánh Lạng Sơn. Lúc này, tướng
nhà Lê giữ thành Lạng Sơn là Hoàng Đình Ái đã theo đường núi trở về Thanh
Hóa trước rồi, viên tướng do Đình Ái lưu lại giữ thành bị thua trận, tan vỡ.
Nguyễn Phú Xuân bèn chiếm cứ thành, rồi đưa thư sang nhà Minh, lĩnh người đi
sứ trở về nước. Quan nhà Minh hỏi:
“Quân
chiếm thành Lạng Sơn vừa rồi, là quân họ Mạc hay quân họ Lê ?”
Giáp Trưng phúc đáp:
“Quân
chiếm thành Lạng Sơn vừa rồi là quân giặc.”
Cũng trong tháng Chạp này, Mạc Phúc Nguyên chết,
con là Mậu Hợp lên ngôi, đổi niên hiệu là Thuần Phúc.
Hồ Bạch Thảo
.........................
[1]
Hoa Dương: tên xã, sau đổi là xã Trác Dương, huyện Hưng Hà, Thái Bình.
[2]
Chi tiết này khác với sử Việt, theo Cương Mục, Mạc Kính Điển là danh tướng, em
ruột Phúc Hải, phò Mạc Phúc Nguyên lập nhiều chiến công (Cương Mục tập 2, trang
128).
[3]
Phủ Thái Bình đời Minh vị trí tại sông Tả Giang, gần biên giới Việt Nam, Bằng
Tường, Long Châu nằm trong phủ này.
[4]
Nam Ninh: hiện nay Nam Ninh là thủ phủ tỉnh Quảng Tây, vị trí cách ngả ba các
sông Tả Giang, Hữu Giang khoảng trên 10 km.
[5]
Vũ Văn Mật: là em Vũ Văn Uyên, người xã Ba Động, huyện Gia Phúc, nay là huyện
Gia Lộc tỉnh Hải Hưng. Khi họ Mạc cướp ngôi nhà Lê thì Vũ Văn Uyên cát cứ vùng
Tuyên Quang chống lại nhà Mạc. Văn Uyên chết, Vũ Văn Mật nối nghiệp anh, được
vua Lê phong tước Gia quốc công.
[6]
Chế Khoa: theo Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn thì lệ thi cử thời Lê như sau:
Những năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu là khoa thi Hương, những năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất
là khoa thi Hội. Nhưng có khi nhà vua có bài chế ban xuống cho mở khoa thi đặc
biệt không theo lệ trên thì gọi là chế khoa. Phép thi chế khoa cũng giống khoa
thi Hội.
[7]
Sông Đại Lại: tức sông Lèn, một nhánh của sông Mã ở Thanh Hoá.
*
Nguồn:
https://nghiencuuquocte.org/2024/06/22/noi-chien-le-mac-duoi-thoi-mac-phuc-nguyen-1546-1561/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét