Người chinh phu đem thân ra chốn chiến trường sống chết chỉ cận kề trong gang tấc, không "túy ngọa sa trường" thì cũng "bạch đầu linh lạc" bâng khuâng thổi sáo chiều tàn biên khu, hay thảm hại hơn, lê lết tấm thân thương tật để tìm về quê hương... Trong khi đó, ở nơi quê nhà người cô phụ luôn luôn mong mõi hằng đêm khoắc khoải mòn mõi đợi chàng về. Có biết đâu rằng lắm khi chàng đã da ngựa bọc thây hay đã xương phơi ngoài chiến địa... Chiến tranh bao giờ cũng tàn khốc và tàn nhẫn như thế cả, mời tất cả cùng đọc bài thơ Lũng Tây Hành của Trần Đào dưới đây sẽ rõ...
隴西行 LŨNG TÂY HÀNH陳陶 Trần Đào誓掃匈奴不顧身, Thệ tảo Hung Nô bất cố thân,五千貂錦喪胡塵。 Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần.可憐無定河邊骨, Khả lân Vô Định Hà biên cốt,猶是深閨夢裏人。 Do thị thâm khuê mộng lý nhân.
1. Chú thích:
TRẦN ĐÀO 陳陶(812—888)Thi nhân đời Đường, tự là Tung Bá 嵩伯, tự hiệu là Tam Giáo Bố Y 三教布衣. Ông người đất Lĩnh Nam, lúc nhỏ từng du học đất Trường An, giỏi thi thư, nhưng thi mãi vẫn không đậu tiến sĩ, nên ẩn cư trong rừng núi, tu tiên, về sau không biết ra sao. Ông để lại mười thi quyển "Trần Tung Bá Thi Tập 陳嵩伯詩集. Trong Toàn Đường Thi《全唐詩》có trích đăng 2 quyển thơ của ông.
Lũng Tây: là vùng đất thuộc núi Lũng Sơn của tỉnh Cam Túc và Ninh Hạ hiện nay. Là vùng tranh chấp giữa Hung Nô và Hán.
Điêu Cẩm: Chỉ đoàn quân tinh nhuệ thiện chiến được trang bị quân trang quân dụng đầy đủ.
Vô Định Hà: Tên con sông thuộc một nhánh của sông Hoàng Hà, nằm ở phía bắc của tỉnh Thiểm Tây, là một chiến địa ngày xưa.
2. Nghĩa bài thơ:
Khúc hát Lũng Tây
Thề quét sạch giặc Hung Nô mà chẳng màng đến thân mình, nên năm ngàn quân thiện chiến phải chôn thây nơi đất Hồ. Khá thương thay, những nắm xương trắng bên bờ sông Vô Định vẫn còn là người trong mộng của các nàng chinh phụ ở chốn khuê phòng!
Chiến tranh là tàn nhẫn như thế đó. Ta hãy nghe những lời thơ trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đoàn nữ sĩ sau đây:
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm?
và ...
Những mong cá nước sum vầy,Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Khi khuyên Từ Hải quy hàng triều đình, Thúy Kiều cũng đã nhắc đến sự tàn khốc của chiến tranh trong "Năm năm hùng cứ một phương hải tần" của Từ Hải đã giết chết biết bao nhiêu là tướng sĩ của cả hai bên:
Ngẫm từ gây việc binh đao,Đống xương VÔ ĐỊNH đã cao bằng đầu.
3. Diễn Nôm:
LŨNG TÂY HÀNHThề quét Hung Nô chẳng nệ thân,Năm ngàn bỏ xác đất Hồ trần.Khá thương xương trắng bờ Vô Định,Vẫn cũng là người chinh phụ mong!
Lục bát:
Hung Nô thề quét chẳng màng,Bên bờ Vô Định năm ngàn bỏ thây.Khá thương xương trắng phơi đầy,Vẫn người trong mộng tháng ngày đợi mong!
Hẹn bài viết tới!
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
*
Mời xem thêm bài thơ cảm tác của Vũ Hoàng Chương (một trong 12 bài thơ cuối đời ông viết trong trại giam Chí Hòa năm 1976 trước khi được trại giam cho về nhà rồi qua đời):
Bài thơ ngắn mà đầy tinh thần nhân văn! Cám ơn bác Đỗ Chiêu Đức đã giới thiệu!
Trả lờiXóa