La Thụy
NHỮNG DẠNG THƠ VIỆT NAM ĐẶC BIỆT - PHẦN III :
THƠ NÓI LÁI
Những nhà thơ chuyên viết dạng thơ nói lái là nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhà thơ Bùi Giáng, nhà thơ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, nhà thơ Võ Quê.
Đọc thơ HỒ XUÂN HƯƠNG, chúng ta thấy bà nói lái thật dí dỏm:
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
(Kiếp Tu Hành)
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo.
Chày kình, tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt, vải lần đếm lại đeo.
(Chùa Quán Sứ)
Đang cơn nắng cực chửa mưa hè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
(Tát nước)
Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
(Quán Khách)
Nhà thơ trào phúng TÚ MỠ (Hồ Trọng Hiếu, 1900-1976) có bài "Lỡm cô Ngọc Hồ" với hai câu nói lái phong cách Hồ Xuân Hương:
HỒ tù ngán nỗi con rồng lộn
NGỌC vết thương tình kẻ cố đeo
(Nhắn khách Băng Tâm ai đó tá
Mỹ danh hai chữ, nghĩ buồn teo.)
Nhà thơ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi (1881 - 1968) là nhà thơ Huế giàu tài năng ông xuất thân nho học, thông thạo chữ Hán, am hiểu tiếng Pháp và chữ quốc ngữ. Ông đã làm những bài thơ nói lái như sau:
Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vải
Dầu sãi không tu cũng giải sầu.
Làng vọng còn hơn cái lọng vàng
Mang sơ tấm áo, chớ mơ sang
Nhắn bạn lên non đừng bắn nhạn
Hang lỗ tìm vào bắt hổ lang
NHỚ BẠN
Nhắc bạn những thương tình nhạn bắc
Trông đời chỉ thấy cảnh trời đông
Đêm thâu tiếng dế đâu thêm mãi
Công khó chờ nhau biết có không
ĐÊM ĐI ĐÒ ĐẬP ĐÁ
Đập cũ đò đưa đủ cặp đời
Trời cho sức khỏe lắm trò chơi
Có đôi, khi rảnh lên côi đó
Cười ngả nghiêng cho mệt cả người
Thảo Am
Hoặc một số bài thơ khác:
Đời chua, bậu cứ thử đùa chơi
Chơi ngỗ xong rồi, kiếm chỗ ngơi
Bến đậu thênh thang, mời bậu đến
Ngồi đây say tít, ngất ngây đời.
Mỗi độ xuân sang chả có gì (chỉ có già)
Giàu sang, keo kiệt để mà chi? (đĩ mà chê?)
Vui xuân chúc tết cầu gia đạo
Cạn chén tiêu sầu tiễn người đi.
Lũ quỷ nay lại về luỹ cũ
Thầy tu mô Phật cũng thù Tây
Thảo Am
(1946)
Trông khống vô phòng thấy trống không
Chứa chan sầu lệ chán chưa chồng
Dòng châu lai láng dầu chong đợi
Bóng nhạn lưng chừng, bạn nhóng trông
Nhòm ngó đã cùng nơi ngã đó
Mơ mồng bên cạnh gối mền bông
Đêm thâu mưa gió đâu thêm mãi,
Xông lướt đi tìm phải xước lông.
Nhà thơ BÙI GIÁNG, tự gọi mình là Bán Dùi, Bàng Giúi vì ông ưa nói lái. Ông thường dùng những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp… trong thơ của ông
Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra
(Mưa nguồn)
Cá ở ngoài khe có ít nhiều
Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
Em về có hỏi răng ri rứa
Nhắm mắt đưa chân có bận liều.
(Bờ trần gian)
Quá khứ liên tồn vô ngấn tích
Sáng tiền minh nguyệt chiếu hoàng mao
Hai hàng mọc cỏ thu sương ngậm
Vành vạnh lê hoa chước chước chào…
(Sa mạc phát tiết, Quỷ ma đối thoại)
Không trước tồn lập con mèo,
Thì trước tập trung con cá
Không trước liên tồn cái lá,
Thì trước tồn lý lún phún in rêu
(Chấp Trước)
Có mấy ngón
Năm ngón
Mười ngón
Món người
Non ngắm
Nắm ngon
Hoặc là năm ngón nón ngăm
Màu đi trên nước cá tăm chuyên cần
Nón ngăm dặm bóng xoay vần
Đọng nơi góp tụ và chần chờ đưa.
(Trong bàn chân đi)
Tháng theo ngày dậy rằm xanh nguyệt
Ba góc càn khôn lộn bốn trời.
(Sa mạc phát tiết, Đường cong)
"Ba góc càn khôn lộn bốn trời" chỉ là ngôn ngữ tượng trưng trong thi ca, nhưng chắc phải quyến rũ lắm, đam mê lắm, nên Bùi Giáng mới ngất ngây giữa thi tứ như rứa…
Nhà thơ Nguyễn Thái Dương cao hứng lên làm một bài thơ lái thật tinh nghịch.
Mực ngò, mực ngó, mực ngằn
Mực, bao nhiêu mực chẳng bằng mực nghi
Chao ôi bất luận mực gì
Vẫn thua mực ngút li bì sớm hôm.
Nhà thơ Võ Quê xứ Huế, bắt đầu làm một bài thơ nói lái cảm tác từ trận lụt kinh hoàng năm 1999 ở Huế:
Trời lụt ca nhi cũng trụt lời
Trời đong mưa lũ xuống trong đời
Vái lạy lụt tan lành váy lại
Đời cho du khách dạo đò chơi.
Bài thơ này được thi hữu truyền tụng ngâm ngợi khi trà dư tửu hậu, tạo đà cho tác giả tiếp tục sự nghiệp “thái lơ” của mình. Ông viết một loạt 50 bài thơ nói lái in trong tập NGƯỢC XUÔI THẾ SỰ, do nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2011.
Đầu năm thi tứ nằm đâu?
Sắc màu nhân thế đượm sầu mắt ai?
Ngược dòng thế sự láng lai
Lang thang nhặt lái một vài câu chơi!
Có bài thơ ông nói lái bỡn cợt bông đùa, tung hứng cùng bạn rượu:
Một chai mai chột, coi chừng!
Nhị chai nhai chị tưng tưng ngà ngà
Ba chai là bai nghe cha!
Bốn chai cẩn thận kẻo mà bái chôn
Ngũ chai ngai chủ hùng hồn
Sáu chai sai cháu bếp cồn luộc tôm!
Có khi, bỗng nhiên ông TỰ HỎI:
Viết câu chi đó?
Có viết chi đâu!
Trống rỗng tim, đầu
Tìm đâu chữ nghĩa...
Rồi bật cười, ông lại TỰ TRÀO:
Mùa lễ hội thơ hoa lỗi hệ
Lục bát đành lạc bút từ khuya
Đợi lâu mới biết đâu có lợi
Bìa treo đây mai ruột đầy bia?
Những vấn đề thời sự xã hội gieo cho nhà thơ Võ Quê trăn trở:
Dầu xăng tăng giá dạ giăng sầu
Đầu tiên trăn trở bạc tiền đâu
Giật gấu vá vai theo vật giá
Thâu đêm nhức nhối nghĩ thêm đau!
***
Biến chất điếm đàng đi chiếm đất
Cánh đồng xoang bởi quán đồng xanh
Hối mại chức quyền gieo mối hại
Lanh mưu thoái hóa thật lưu manh!
***
Dân mình hiến đất xây trường
Quan tham lấn đất trầy xương thầy trò
Học đường lắm nỗi sầu lo
Quan tham thì vẫn trùm sò dài lâu.
Ngoài nhà thơ Thảo Am, nhà thơ Bùi Giáng, nhà thơ Võ Quê còn có các nhà thơ Bùi Tiến, Tường Linh, Y Nguyên... cũng sáng tác thơ nói lái.
LOẠN
Loạn thật đau thương, đời thật loạn
Đông Tây muôn kiếp vẫn Tây Đông
Trái ngang ai kẻ phân ngang trái
Không thấy thanh bình, ai thấy không ?
Bùi Tiến
LỠ THÌ BÁT PHỐ
Ngày tối mơ màng một mối tơ
Mơ chồng nên luống nhũng mong chờ
Có người phơi phới vui cười ngó
Riêng tớ êm rơ tiếng khóc hờ
Y Nguyên
Có cuộc xướng họa thơ nói lái của các nhà thơ Bùi Tiến, Y Nguyên, Lão Dương, Tùng Linh thật vui nhộn như sau:
VÒI VĨNH VỢ, VỢ... VỜ VĨNH
Chồng yêu mà vợ chẳng chiều ông
Lại tống lầm đi một tấm lòng
Biết vậy thà ngồi mà viết bậy
Bế bồng khăng khít cũng bằng không !
Lưỡng Dao
Bùi Tiến trả lời thay Lão Dương (nói lái của Lưỡng Dao) phu nhân:
CÓ NÊN CHIỀU ÔNG CHỒNG YÊU ?
Không ông đâu được phải không ông
Nghe lóng rồi ra cũng rối lòng
Táo bạo, xưng ông, chà táo bạo
Chồng khiêu khích vậy, đáng chiều không ?
Bùi Tiến
Lão Dương phu nhân bổ túc Bùi đại nhân :
CHỒNG CHÍ CHÓE
Lòng thòng em quá, chẳng thèm ông
Long tong lờ lửng sợi tơ lòng
Lài rài mấy chén xong rầy mãi
Lốc thốc khinh đời rứa thích không ?
Lão Dương đại phu nhân
Đến lượt Nhị phu nhân lên tiếng:
VỢ VẪN VẤN VƯƠNG
Chồng ơ thờ mấy cũng chờ ông
Lêu lỗng tầm đâu được tấm lòng
Cậy chàng yên vị, ông càng chạy
Công khó chờ ông biết có không ? *
Lão Dương nhị phu nhân
* Trộm phép đạo thơ cụ Thảo Am
Tam phu nhân cũng cất lời :
MÈO NÀO CẮN MĨU NÀO
Chồng ôm thủ thỉ bám chồm ông
Long đầu hai vị chớ đau lòng
Tắc tíc gia truyền môn tíc tắc
Khởi công khe hở khẽ cởi... không !
Thay mặt Tam Muội
Tùng Linh
Nhị nương và Tứ nương chỉnh Tam nương :
LỬA TAM MUỘI – QUẠT BA TIÊU
Đã bốc ăn rồi lại bắt ông
Buông lỏng, lừa nhau cướp lửa lòng
Quạt Ba Tiêu bạt qua Tam Muội
Lộc bổng kho đầy lại bỏ không !
Nhị nương và tứ muội
Bùi Tiến đại nhân nhắn nhủ :
GỬI CÁC PHU NHÂN BÉ
Bồng, A! ba bốn cũng Bà Ông
Lừa lọc đuờng đời, cốt được lòng
Cát Lũy cố ganh phần Quý Lạt
Công không yên phận kẻ công không
Thay mặt Lão Dương phu nhân
Bùi Tiến
Quý phu nhân không những xổ nho cùng điển tích mà còn xổ tiếng Tây, tiếng U (Ah Bon – Bồng, A) ra nữa, chắc chắc Lão Dương mệt hung rồi đây! Nhưng, nghe các bà om sòm ỏm tỏi, Lão Dương chẳng những không đòi dưỡng lao mà còn dọa sẽ nổi dóa bốc đồng lên :
BỊT MỒM BỐN MỤ
Mọi phòng yên hết ! Chớ phiền ông
Cả rống làm ông rối rắm lòng !
Xáo, xào không học, lo xào xáo
Ông bốc, khiêng bà nữa, biết không !
Lão Dương
"Hốt văn sư tử Hà Đông hống" như rứa mà Lão Dương còn cương mãnh, trị được bệnh xào xáo của bốn bà, oai phong thiệt! Người sưu tầm THƠ NÓI LÁI này xin bái phục!
Nhà thơ Thái Quốc Mưu cùng thi hữu trong lúc trà dư tửu hậu cũng vui xướng họa thơ nói lái.
CẢNH THU
(Hay bài thơ “lạc vận mà không lạc” )
Thu đội lá vàng ta đội thu
Tranh thu rồng lộn giữa mây mù
Trên cành đổ lá con công ngủ
Chiếc võng nghiêng đầu dáng mẹ ru
Góc đá chàng trai ngồi lặt cỏ
Ven song mấy ả đứng rờ hoa
Trong thuyền cô gái chôn lời vội
Chàng trẻ khom lưng bít lỗ lù
Thái Quốc Mưu
THU ĐẬM SẮC MÀU
Thu đệm nhạc buồn đậm sắc thu
Thu ca lời hát đẫm sương mù
Thu cong mặt lá vàng phiên khúc
Thu cỡi đài hoa tím điệu ru
Thu Vũ đại ca tay lắc cọ (1 )
Thu huynh Thái Quốc trí tìm mưu (2 )
Thu nhiều cảm xúc hồn lơ láo
Thu cũ trong ta hiện lú lù
Thiết Bình Nương Tử
(1) Anh Vũ Hối chỉ với cây cọ long mà viết như vẽ tranh
(2) Anh Thái Quốc Mưu
Anh Nguyễn Văn Quang cựu học sinh trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị (1967 - 1970), có những câu thơ nói lái vui như sau:
Bố nghi bí ngô báo đi bí đao,
Can ông công an đi ông đông y!
Nhà lợp tồn lo nắng cực!
Tập thể giục tập thể tập thể dục tập thể
Nguyễn Văn Quang
Chúng tôi giới thiệu thêm một số câu thơ nói lái truyền khẩu của nhiều tác giả khuyết danh khác
"Chú phỉnh" tôi rồi "chính phủ" ơi,
"Chiến khu" đong lúa "chú khiên" rồi
"Thi đua" sao cứ "thua đi" mãi
"Kháng chiến" lâu rồi "khiến chán" thôi !!!
***
Phấn lau chưa dứt nghe pháo lân
Tân niên rót rượu mời Tiên nâng
Cô dâu hứa đải ăn dưa hấu
Chú rể tinh thần tựa tình thân
Có ông phó đảo châm pháo đỏ
Chú lính xuân qua muốn xa quân
Mang vài chậu kiểng mai vàng rộ
Xin tuần nghỉ phép thoả tình xuân
***
Về thường thăm lại vườn thề
Buồn lo trăm mối não nề bò luôn
Cuộn cho dùi mập cọ chuông
Người giàu sâu hiểm, chớ buồn dầu sao
Đau lòng lên tận Đông Lào
Thầy tăng ra đón, vẩy chào thằng tây
Tây đà vốn biết ta đầy
Bầy gà tre gạ đổi ngay ghe trà
Chả thằng nào bảo chẳng thà
Đổi trao như vậy chắc là đảo trôi
Vội ta mắc phải vạ tôi
Đành thôi vác chiếu về ngồi đồi thanh
Bánh ong* để dưới bóng anh... (bánh tổ ong)
Ăn rồi chợt nghỉ lanh quanh : Ôi rằng
Bắn trong khung vẻ bóng trăng
Làng thâm u quá cũng bằng lầm than
Ngang vài cung gấm ngai vàng
Khổ lòng ngắm thử y chang khổng lồ
Cố ra tìm bắt cá rô
Kho chi một tộ khi cho họ mừng...
*****
Ban ngày lặt cỏ tối công phu
Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu
Ngày ta địa chủ, đêm tu đạo
Đạo chi lạ rứa: "Đạo ù ù".
*****
Thầy giáo tháo giầy, tháo giáo án dán áo
Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa, nhòa cả hương
Làm giáo chức, phải giứt cháo
Thảo chương, rồi để được ... thưởng chao
Nhường luôn hết cả nhà xe, nhè luôn hết cả xương
Nhường luôn miếng đất, nhất luôn cả miếng đường
Nhường tới tận rau, nhàu luôn tới tận xương
Nhường tới cái túi, nhúi ... tới cái tường
Lấy lương hưu, để lưu hương
***
Chiều ba mươi, thầy giáo tháo giày ra chợ bán
Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang.
****
Thương em, muôn kiếp còn thương mãi,
Em nỡ đem tình anh thảy mương.
Đêm ngủ anh nằm thê thảm khóc,
Câu thề năm cũ quẳng ra đường...
A Lin.
*****
Qua hố lội gặp thằng hối lộ
Câu đầu tiên nó hỏi tiền đâu?
Xin chữ ký? anh nghe kỹ chứ?
Một đấu vàng? Ôi, thật váng đầu!
*****
Má đưa con đi trong mưa đá
Má đặt con lên mặt đá bằng
Má đi vào xem mi đá bóng
Má đang mang đá tới lót nền
Má lột một lá dính vào phên
Má lấy bên hè đi mấy lá
Má lòn mòn lá cửa ngoài hiên
Má cần mần cá để kho liền
Má cắt con mắt cá đầu tiên
Má cũng mua đầy hai mủng cá
Má can con ăn mang cá kình.
*****
Con cá đối nằm trên cối đá
Cô dâu hứa đi mua dưa hấu
Cô láng giềng tắm bên giếng làng
Thằng bé mồm to lặn lội mò tôm
*****
Gái Củ Chi, chỉ cu hỏi củ chi
Thầy tu tâm lại rất thù Tây
Thằng Tây cũng rất ghét thầy tăng
Bức tranh lộng kiếng đem liệng cống
Điều kiện đầu tiên là... tiền đâu ?
Thầy giáo tháo giầy đi chân đất
Tiền thân mình có phải thần tiên ?
Kỹ sư giàu vẫn hơn cư sĩ nghèo
Uống trà Thái Đức đêm thường thức đái
Sống ở Thủ Đức năm canh thức đủ
NÓI LÁI Ở NGÔN NGỮ KHÁC
Cách nói này cũng được nhiều quốc gia khác sử dụng.
Thí dụ trong tiếng Anh: "The Lord is a shoving leopard" (thay vì "The Lord is a loving shepherd") - gọi là Spoonerism.
Thí dụ trong tiếng Đức: "Auf der Liebesreise // sprach der Leibesriese: // "Reib es, Liese!" // Und sie rieb es leise." - gọi là "Wortdreher" hay "Buchstabend reher", cách làm thơ có vần như thế gọi là Schüttelreim.
Văn hào VOLTAIRE của Pháp (1694-1778), tên thật là François Marie AROUET, lấy tên thành phố quê hương là Airvault (thuộc vùng Deux Sèvres) nói lái là Vault – Air để có bút danh Voltaire đó mà!
La Thụy sưu tầm và biên tập
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét