CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

NGUYỄN PHÚC QUÂN, HOÀNG TỬ THỨ MƯỜI CỦA VUA GIA LONG, NGƯỜI QUẬY TUNG KINH THÀNH HUẾ - Lê Quang Thanh Tâm

 

Trong những người con vua Gia Long sinh ra giữa thời thái bình, không vướng gió bụi chiến chinh, thì nổi bật một vị hoàng tử ngông nghênh, ăn chơi "tới nóc", quậy tung trời đất, làm náo động chốn kinh kỳ, ấy chính là Nguyễn Phúc Quân, tức Quảng Uy Công, con trai thứ mười của Hoàng đế.

Nguyễn Phúc Quân (có sách chép là Nguyễn Phước Quân) sinh ngày 20 tháng 8 năm 1809, mất ngày 26 tháng 5 năm 1829, được phong tước Quảng Uy Công, dân gian đọc trại thành Quảng Oai Công. Quân là con vua Gia Long với Đức phi Lê Ngọc Bình, ái nữ của vua Lê Hiển Tông. Cùng mẹ với Quân còn có An Nghĩa Công chúa Ngọc Ngôn (1804 - 1856), Mỹ Khê Công chúa Ngọc Khuê (1807 - 1827) và Thường Tín Quận vương Nguyễn Phúc Cự (1810 - 1849).
Quân sinh ngày mồng bảy tháng tư (âm lịch) năm Kỷ Tỵ (1809). Năm Gia Long thứ mười sáu (1817), mới chín tuổi, Quân đã được phong Quảng Uy Công. Mẹ mất sớm năm 1810, sau khi sinh em trai là Cự, Quân được Hoàng hậu Tống Thị Lan đem về nuôi dưỡng, xem như con ruột. Vì vậy, từ thuở nhỏ, Quân được thương yêu hết mực, nên tánh tình hơi ngổ ngáo, hiếu động.
 
Khi Hoàng hậu Tống Thị Lan mất năm 1814, Quân cùng các em được đưa về ở cùng Long Thành Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Tú, chị ruột vua Gia Long, người giữ tiết hạnh, nhân từ. Công nữ Ngọc Tú từng chứng kiến chồng là Cai cơ Điển tử tiết trong trận chiến ở đảo Điệp Thạch. Bà giữ trọn tiết hạnh, thề không tái giá, nói rằng:
“Điển đã làm bề tôi biết chết vì tiết nghĩa, ta là vợ há đổi lòng sao? Khi nào lấy lại được kinh thành cũ, ta lập tức xuất gia thờ Phật mà thôi.”
 
Vua Gia Long thương chị, khen là người chí liệt, cho dựng phủ đệ tại xã Dương Xuân để bà an dưỡng. Bà thường xin cắt tóc quy y, nhưng vua chưa bằng lòng. Trong phủ ấy, Quân cùng anh em sống sau khi mẹ mất, được thương yêu, cưng chiều, nên đã bướng bỉnh thì lại càng nghịch ngợm hơn.
 
Quân vốn ham chơi hơn ham học. Thầy dạy Ngô Đình Giới nghiêm khắc, Quân ghét cay ghét đắng. Một hôm, Quân cho đầy tớ bắt con nhái trói ở sân, đánh bằng roi mà bảo:
“Mày chớ có khinh ta!”
Biết trò giễu cợt thầy, ông Giới xin vua không dạy Quân nữa.
Đến những năm đầu Minh Mạng, vua lại cho Trần Đại Nghĩa làm giáo đạo, còn cử Nguyễn Đăng Sĩ làm giảng quan trong phủ riêng Quân, đồng thời ban cho một cây roi, dạy:
 
“Em nhỏ tuổi của trẫm, sinh trưởng trong cung cấm, không dạy sẽ không nên người có đức. Khanh phải khôn khéo dẫn bảo, có lỗi thì đánh, chớ để cho kiêu lười thành tính.”
 
Nhưng Quân vẫn ngang tàng. Quân hào phóng, thương người, hay bố thí; nhưng nóng nảy, khi nổi giận thì đánh roi sắt, nặng thì xẻo tai, chặt ngón tay. Lúc nhỏ, Quân sống gần mẹ, nên nói giọng Bắc, và hay dùng mỗi khi hứng chí. Khi thấy quan võ bàn tán phân biệt nhân phẩm Đàng Trong – Đàng Ngoài, Quân liền quát:
“Lũ chúng mày không biết người Đàng Ngoài tức là ông cha người Đàng Trong à?”
Quân còn sai đầy tớ làm ghế ngồi, gối dựa khiến người đó liệt không đứng dậy được.
Quân quậy tung trời, lôi cả em út Nguyễn Phúc Cự vào vạ. Bà Ngọc Tú cưng Cự như trứng, hay mắng Quân, nhưng Quân chỉ cười hề hề.
Khi bà Ngọc Tú bệnh nặng, vua Minh Mạng thường đến thăm. Bà khóc mà nói:
 
“Cắt tóc thờ Phật, ấy là ý muốn lúc bình sinh của kẻ vong nhân này, có chí mà chưa thực hiện, xin bệ hạ làm trọn ý ấy, sau khi chết rồi chớ để tóc, liệm áo cà sa, thế là hồn ở dưới chín suối cũng được toại ý.”
 
Vua cảm động, thấu lòng Hoàng cô. Ngọc Tú qua đời tháng 11 âm lịch năm Quý Mùi (1823). Quân và em Cự thay nhau quỳ bên quan tài, xem như con ruột mà tế tự.
 
Quân khỏe mạnh, thích võ, tay không dám đánh hổ dữ. Quân nuôi trâu, tô sơn rồi đem đấu với voi cho vui. Chó săn, gà chọi chết, Quân cho lấy gấm lụa khâm liệm. Ai không nộp, bị đánh. Dân trong vùng oán than khắp nơi.
 
Vua Minh Mạng nhiều lần quở mắng, phạt lương bổng, nhưng Quân chẳng sợ, còn dẫy đành đạch nói:
“Cha mẹ mất cả, thân mồ côi, không ai dạy dỗ, không còn gì vui, cho nên phải như vậy thôi.”
Vua giận nhưng nghĩ lại cũng có lý, chỉ cười rồi thôi.
 
Cái chết yểu mệnh
 
Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), Quân mắc bệnh đậu mùa. Vua cho đặt giường riêng, hầu hạ mặc đỏ và tím, thuốc men tâu lên vua. Khi vua hỏi Quân muốn gì, Quân đáp:
“Em chỉ muốn chóng khỏi bệnh để còn phá gia sản thôi.”
Vua Minh Mạng bật cười.
 
Nhưng bệnh Quân không giảm mà ngày một trở nặng, Quân qua đời ngày 24 tháng 4 âm lịch, hưởng dương 21 tuổi. Vua nghỉ chầu 3 ngày, truy thụy Cung Trực, sai hoàng trưởng tử Miên Tông đến tế rượu, ban gấm vóc và 3.000 quan tiền, sai Tôn Thất Bằng lo việc tang.
Quân có hơn 30 vợ và nàng hầu, ăn chơi ngút trời, nhưng không có con nối dõi. Gia sản giao cho em là Thường Tín Quận vương Nguyễn Phúc Cự.
 
Các chị gái và em trai của Quân đều có gia đình và con cái đề huề:
Năm Minh Mạng thứ 5 (1824), tháng giêng, công chúa Ngọc Ngôn lấy chồng là Kiêu kỵ Đô úy Lê Văn Yên (hoặc Yến), con trai cả của Đô thống chế Tả dinh quân Lê Văn Phong, được lấy làm thừa tự cho người bác là Lê Văn Duyệt. Hai người có với nhau ba con trai.
Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), tháng 10 âm lịch, công chúa Ngọc Khuê lấy chồng là Vệ úy Nguyễn Văn Thiện, con trai thứ hai của Kinh Môn Quận công Nguyễn Văn Nhơn. Hai người có một con trai tên là Uyển. Uyển được nhận tiền gạo chu cấp và tập ấm hàm Cẩm y vệ Hiệu úy.
Thường Tín Quận vương Cự có tất cả bảy con trai và mười một con gái. Công tử trưởng là Thường Nhâm, công tử thứ hai là Thường Dung, công tử thứ ba là Thường Đổng - năm Tự Đức thứ 8 (1858) được phong Vĩnh Ân Đình hầu. Công tử thứ năm là Thường Lâu, cùng năm Tự Đức thứ 8 được ân phong Trợ quốc khanh.
 
Nhờ vậy mà dòng dõi con cháu Gia Long và Lê Ngọc Bình vẫn còn truyền thừa đến đời của nữ nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Giàu.
Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), vua cho đúc các con thú bằng vàng để ban thưởng cho các hoàng thân, trưởng công chúa và con cháu đã mất, giao cho người thừa tự hoặc người giám thủ để thờ. Quân được ban một con kỳ lân bằng vàng, nặng ba lạng bảy đồng cân.
 
Tẩm mộ của Nguyễn Phúc Quân nay nằm ở làng Trúc Lâm, phường Hương Long, thành phố Huế, vẫn còn lưu dấu một thời hoàng tử ngông nghênh mà tài hoa.
                                                                 Lê Quang Thanh Tâm
                                                              Trích từ Hùng Ca Sử Việt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét