1.
Trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ của mình, Phạm Duy đã có rất nhiều ca khúc, mà phần lời, lấy từ thơ của nhiều nhà thơ nổi tiếng. Một trong những nhà thơ đó là Phạm Thiên Thư, với bốn bài thơ tiêu biểu, được phổ thành nhạc: Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, Ngày Xưa Hoàng Thị, Em Lễ Chùa Này, Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu.
Đánh giá đúng, và đúng đến từng chữ, thì phải là rất-hay, rất-rất-hay.
Thế hệ tôi, không ai là không biết, tệ lắm thì cũng, không ai là chưa từng nghe qua một lần: rằng xưa có gã từ quan / lên non tìm động hoa vàng ngủ say.
Phạm Thiên Thư, tức Thích Tuệ Không, từng cạo đầu, mặc áo nâu sòng, ở trong chùa đến chín năm. Đi tu, cũng là chuyện bất đắc dĩ, nhưng nhờ vậy mà ông ngộ ra được nhiều điều: bước chân tìm chán ta bà / ngừng đây nó hỏi đâu là vô minh.
Nếu có yêu, nếu có nhớ, thì đó cũng chỉ là yêu, là nhớ, thấp thoáng, xa xôi, khói sương, huyền ảo, hư huyễn, vô thường: thì thôi tóc ấy phù vân / thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương.
Cứ phải nói trắng ra, thì mới là thịt da, hôn hít sao. Phạm Thiên Thư đã tự nhận mình đấy thôi: mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ.
Phạm Thiên Thư, làm thơ như: mây đầu sông thẫm, tóc người cuối sông, trào tuôn lênh láng. Đọc thơ ông, dẫu biết mình đang giữa cõi phù sinh, chẳng gì mãi mãi, chẳng gì bền lâu, mà vẫn nghe mạch chảy dòng bình yên, thanh thản: nụ là tay Phật chỉ người qua sông.
2.
Động Hoa Vàng, một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Phạm Thiên Thư, có một trăm khổ, mỗi khổ bốn câu, kể chuyện gã từ quan, vốn xem nhẹ lợi danh, chán chường chốn thị phi, tìm về nơi non cao suối sâu, lui vào, ẩn dật, mơ được cùng tình ngủ say trong động hoa vàng: gối tay nệm cỏ nằm say / gõ vào đá tụng một vài biển kinh / mai sau trời đất thái bình / về lưng núi phượng một mình tụng ca.
Động Hoa Vàng, nơi có miền tuyết thơm, tơ huyền, hoa rừng, cội thu xanh, đồi dạ lan, đường lặng im, thềm trăng, lưng núi phượng.
Là nơi đầy hoa, đầy trăng, đầy cả tiếng chim.
Và là nơi để nhớ nhau.
Từ bốn trăm câu này, Phạm Duy đã lựa chọn một số câu để viết thành nhạc phẩm Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng. Chỉ lấy một ít, thậm chí, có những câu chỉ lấy một từ, vậy mà khi thành hình, ca khúc vẫn giữ được ý chính của bài thơ. Thế nên, người đời mới trầm trồ, ngợi khen, Phạm Duy tài tình. Thế nên, người đời mới tấm tắc, xuýt xoa, Phạm Duy, phù thủy âm nhạc.
Các câu Phạm Duy sử dụng, nằm trong các khổ lục bát sau đây:
7ừ thì mình ngại mưa maucũng đưa anh đến bên cầu nước xuôisông này chảy một dòng thôimây đầu sông thẫm tóc người cuối sông8ngày xưa em chửa theo chồngmùa xuân em mặc áo hồng đào rơimùa thu áo biếc da trờisang đông em lại đổi dời áo hoa9đường về hái nụ mù sađưa theo dài một nương cà tím thôithôi thì em chẳng yêu tôileo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng12con chim chết dưới cội hoatiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xaomai anh chết dưới cội đàokhóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu15đợi nhau tàn cuộc hoa nàyđành như cánh bướm đồi tây hững hờtìm trang lệ ố hàng thơchữ xưa quyên dục bây giờ chim di22thì thôi tóc ấy phù vânthì thôi lệ ấy còn ngần dáng sươngthì thôi mù phố xe đườngthôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi41ta về rũ áo mây trôigối trăng đánh giấc bên đồi dạ lanrằng xưa có gã từ quanlên non tìm động hoa vàng ngủ say46nhện cheo leo mắc tơ trờidòng chim qua hỏi mộ người tà dươngđánh rơi hạt mận bên đườngxuân sau mọc giữa chân thường cội hoa49mùa xuân mặc lá trên ngànmùa thu mặc chú bướm vàng tương tưđộng nam hoa có thiền sưđổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn62từ hôm em bỏ theo chồngáo trắng em cất áo hồng em mangchiều nay giở lại bàng hoàngmười năm áo cũ hoe vàng lệ xanh
3.
Nhiều ca sĩ hát nhạc của Phạm Duy, nhưng cả bốn bài nói trên, nếu hỏi tôi, thích người nào hát nhất, thì tôi sẽ thưa ngay mà không cần suy nghĩ, đắn đo, Thái Thanh.
Ngày nhỏ, khi chưa biết nhiều, tôi cho rằng, giọng bà, sao mà uốn éo, sao mà nheo nhéo, chua chua. Lớn lên mới biết, uốn éo ấy, chua chua ấy, vừa là trời phú vừa là kỹ năng. Tuyệt kỹ có một không hai này, chỉ mình bà. Nên thích.
Phạm Thiên Thư, trời sắp xếp cho thơ ông gặp được Phạm Duy, rồi trời lại sắp xếp cho Phạm Duy gặp được Thái Thanh (hoặc có thể, ngược lại, chuyện ấy chẳng quan trọng chi). Không có những mối lương duyên kiểu tiền định ấy, thì không có tên tuổi lẫy lừng họ, trong suốt cả hai thế kỷ, hai mươi và hai mươi mốt, như đã.
Nên nếu nói, thơ Phạm Thiên Thư là những sợi tơ, thì Phạm Duy chính là người dệt tơ ấy thành lụa, và giọng ca Thái Thanh đã dát vàng lên thân lụa kiêu sa, óng ả:
Nhiều ca sĩ hát nhạc của Phạm Duy, nhưng cả bốn bài nói trên, nếu hỏi tôi, thích người nào hát nhất, thì tôi sẽ thưa ngay mà không cần suy nghĩ, đắn đo, Thái Thanh.
Ngày nhỏ, khi chưa biết nhiều, tôi cho rằng, giọng bà, sao mà uốn éo, sao mà nheo nhéo, chua chua. Lớn lên mới biết, uốn éo ấy, chua chua ấy, vừa là trời phú vừa là kỹ năng. Tuyệt kỹ có một không hai này, chỉ mình bà. Nên thích.
Phạm Thiên Thư, trời sắp xếp cho thơ ông gặp được Phạm Duy, rồi trời lại sắp xếp cho Phạm Duy gặp được Thái Thanh (hoặc có thể, ngược lại, chuyện ấy chẳng quan trọng chi). Không có những mối lương duyên kiểu tiền định ấy, thì không có tên tuổi lẫy lừng họ, trong suốt cả hai thế kỷ, hai mươi và hai mươi mốt, như đã.
Nên nếu nói, thơ Phạm Thiên Thư là những sợi tơ, thì Phạm Duy chính là người dệt tơ ấy thành lụa, và giọng ca Thái Thanh đã dát vàng lên thân lụa kiêu sa, óng ả:
rằng xưa có gã từ quanlên non tìm động hoa vàng nhớ nhauthôi thì em đừng ngại mưa mauđưa nhau ra tới bên cầu nước xuôisông này đây chảy một dòng thôimây đầu sông thẫm tóc người cuối sôngnhớ xưa em chửa theo chồngmùa xuân may áo áo hồng đào rơimùa thu em mặc áo da trờisang đông lại khoác lên người áo hoarằng xưa có gã từ quanlên non tìm động hoa vàng ngủ saythôi thì em chẳng còn yêu tôileo lên cành bưởi khóc người rưng rưngthôi thì thôi mộ người tà dươngthôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôinhớ xưa em rũ tóc thềnhìn trăng sao nỡ để lời thề bayđợi nhau tàn cuộc hoa nàyđành như cánh bướm đồi tây hững hờrằng xưa có gã từ quanlên non tìm động hoa vàng ngủ saythôi thì thôi để mặc mây trôiôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lanthôi thì thôi chỉ là phù vânthôi thì thôi nhé có ngần ấy thôichim ơi chết dưới cội hoatiếng kêu rơi rụng giữa giang hàmai ta chết dưới cội đàokhóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu.
Một trăm khổ thơ Động Hoa Vàng của Phạm Thiên Thư, không phải ai cũng biết. Nhưng khi Phạm Duy soạn thành Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, số lượng người thuộc ca khúc, và biết ca khúc, được phổ từ thơ của Phạm Thiên Thư, tôi nghĩ, phải gấp trăm, gấp ngàn, gấp chục ngàn lần hơn thế.
4.
Và cũng ít ai biết rằng, trong một trăm khổ thơ ấy, khổ thơ hay nhất lại là khổ thơ không được đưa vào nhạc, nhưng lại làm tốn hao giấy mực nhất của giới thưởng lãm, cảm nhận, phê bình.
Đó là khổ thơ mở đầu:
mười con nhạn trắng về thanhư lai thường trụ trên tà áo xuânvai nghiêng nghiêng suối tơ huyềnđôi gò đào nở trên miền tuyết thơm.
Bốn câu thơ, đẹp như mơ.
Cảm ra là nó đẹp, nhưng kêu giải thích, thì thiệt là khó chớ chẳng phải chơi.
Rồi giới mê thơ nghĩ, chắc phải tìm Phạm Thiên Thư, tác giả, để nghe kể vì sao, lý do cùng lý trấu, nhưng giờ đây, ông mắc hội chứng quên, alzheimer, sau những lần tai biến. Gặp bạn bè xưa, ông chỉ cười, và mắt trống không, vào chân trời vô định.
Thế thì phải tự đoán thôi.
Chim nhạn thì dễ rồi, tra google thấy, có nơi còn gọi là nhàn, hay còn gọi là chim én, chim yến, chúng mang nhiều màu lông khác nhau.
Nhưng sao lại là nhạn trắng, sao lại là mười con mà không ít hơn hay nhiều hơn. Ờ thì là, màu trắng là màu tinh khiết, phù hợp với chất thiền. Ờ thì là, mười con cho nó có vần có điệu, vốn dĩ, thơ lục bát không chuộng những vần trắc lắm.
Hoặc, mười con nhạn trắng, là mười ngón búp măng của hai bàn tay người con gái.
Vậy, như lai thường trụ trên tà áo xuân, nghĩa là gì? Thì đây, theo tôi.
Thường Trụ là không biến đổi, là ngay trước mắt, là luôn hiện diện, sẵn có một cách trọn vẹn, là Niết Bàn bao trùm vũ trụ.
Như Lai Thường Trụ là Luôn Có Pháp, Luôn Có Phật.
Hiểu được Luôn Có Pháp, Luôn Có Phật, thì gọi là Chính Tha.
Trên Tà Áo Xuân, hay là Vườn Hoa Chính Giác là nơi mà Như Lai, sau khi thoát ra khỏi vô lượng phiền não, ngài thong dong, vui vẻ, an lạc, dạo chơi.
Chín năm mặc áo Thiền Sư, thế nên thơ Phạm Thiên Thư mà không có Đạo Pháp ở trỏng, thì làm sao mà coi đặng!
5.
Ấy là giải thích của tôi, sau những vo ve nghe và hiểu Pháp trong những ngày dài chuyển thoại vừa qua.
Sở học của tôi về Phật Pháp, mỏng như lá, nhẹ tợ lá, giống bụi bám trên bề mặt, thổi phù một cái là sạch sành sanh.
Nhưng hề chi. Nếu Thơ Là Quyền Uy Tuyệt Đối (câu gởi lại cho đời của nhà phê bình văn học Đặng Tiến), thì việc cảm thơ, cũng là một quyền uy tuyệt đối của toàn thể người đọc.
Cảm thơ đến đâu, là tùy trí, tùy tâm, và cả tùy duyên nữa.
6.
Nếu bốn câu đầu của bài thơ Động Hoa Vàng được xem là khổ thơ hay nhứt, thì trong ca khúc Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng của Phạm Duy, câu mà tôi thích nhứt lại là câu, khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu.
Xin, là lời cầu khẩn.
Nhỏ, hay rỏ, là buông cho rơi xuống.
Lệ, là nước mắt, là hạt tiếc thương, là giọt đau lòng, là nỗi bi ai, là niềm thống thiết.
Thiên thu, là vạn vạn kiếp, là ngàn ngàn năm, là mãi mãi, là muôn đời, là vô cùng vô tận.
Nên, nếu có khóc ta, đừng khóc cho có, cho lấy có, lấy lệ.
Có khóc ta, xin khóc bằng giọt thành thật, từ sâu thẳm nơi tim, từ những buồn vui bao lâu dồn lại, từ những oan khiên, khốn khó trăm năm, mà ta đã từng, cùng lê bước mòn qua.
Chỉ cần thế thôi, có phải? Chỉ cần, nếu phải khóc nhau, nếu đã đến lúc khóc nhau, thì xin hãy nhỏ lệ ấy, vào thiên thu. Để nuôi nấng, kiếp sau, lại tiếp tục bên nhau một vòng sinh tử.
Vì thế, với tôi, khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu, ngoài nghĩa nuối tiếc, đớn đau, còn hàm nghĩa, đó là giọt nước mắt của hẹn ước, là giọt nước mắt đợi tái sinh, là giọt nước mắt mừng vui của ngày gặp lại nhau, hạnh phúc!
Cảm ra là nó đẹp, nhưng kêu giải thích, thì thiệt là khó chớ chẳng phải chơi.
Rồi giới mê thơ nghĩ, chắc phải tìm Phạm Thiên Thư, tác giả, để nghe kể vì sao, lý do cùng lý trấu, nhưng giờ đây, ông mắc hội chứng quên, alzheimer, sau những lần tai biến. Gặp bạn bè xưa, ông chỉ cười, và mắt trống không, vào chân trời vô định.
Thế thì phải tự đoán thôi.
Chim nhạn thì dễ rồi, tra google thấy, có nơi còn gọi là nhàn, hay còn gọi là chim én, chim yến, chúng mang nhiều màu lông khác nhau.
Nhưng sao lại là nhạn trắng, sao lại là mười con mà không ít hơn hay nhiều hơn. Ờ thì là, màu trắng là màu tinh khiết, phù hợp với chất thiền. Ờ thì là, mười con cho nó có vần có điệu, vốn dĩ, thơ lục bát không chuộng những vần trắc lắm.
Hoặc, mười con nhạn trắng, là mười ngón búp măng của hai bàn tay người con gái.
Vậy, như lai thường trụ trên tà áo xuân, nghĩa là gì? Thì đây, theo tôi.
Thường Trụ là không biến đổi, là ngay trước mắt, là luôn hiện diện, sẵn có một cách trọn vẹn, là Niết Bàn bao trùm vũ trụ.
Như Lai Thường Trụ là Luôn Có Pháp, Luôn Có Phật.
Hiểu được Luôn Có Pháp, Luôn Có Phật, thì gọi là Chính Tha.
Trên Tà Áo Xuân, hay là Vườn Hoa Chính Giác là nơi mà Như Lai, sau khi thoát ra khỏi vô lượng phiền não, ngài thong dong, vui vẻ, an lạc, dạo chơi.
Chín năm mặc áo Thiền Sư, thế nên thơ Phạm Thiên Thư mà không có Đạo Pháp ở trỏng, thì làm sao mà coi đặng!
5.
Ấy là giải thích của tôi, sau những vo ve nghe và hiểu Pháp trong những ngày dài chuyển thoại vừa qua.
Sở học của tôi về Phật Pháp, mỏng như lá, nhẹ tợ lá, giống bụi bám trên bề mặt, thổi phù một cái là sạch sành sanh.
Nhưng hề chi. Nếu Thơ Là Quyền Uy Tuyệt Đối (câu gởi lại cho đời của nhà phê bình văn học Đặng Tiến), thì việc cảm thơ, cũng là một quyền uy tuyệt đối của toàn thể người đọc.
Cảm thơ đến đâu, là tùy trí, tùy tâm, và cả tùy duyên nữa.
6.
Nếu bốn câu đầu của bài thơ Động Hoa Vàng được xem là khổ thơ hay nhứt, thì trong ca khúc Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng của Phạm Duy, câu mà tôi thích nhứt lại là câu, khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu.
Xin, là lời cầu khẩn.
Nhỏ, hay rỏ, là buông cho rơi xuống.
Lệ, là nước mắt, là hạt tiếc thương, là giọt đau lòng, là nỗi bi ai, là niềm thống thiết.
Thiên thu, là vạn vạn kiếp, là ngàn ngàn năm, là mãi mãi, là muôn đời, là vô cùng vô tận.
Nên, nếu có khóc ta, đừng khóc cho có, cho lấy có, lấy lệ.
Có khóc ta, xin khóc bằng giọt thành thật, từ sâu thẳm nơi tim, từ những buồn vui bao lâu dồn lại, từ những oan khiên, khốn khó trăm năm, mà ta đã từng, cùng lê bước mòn qua.
Chỉ cần thế thôi, có phải? Chỉ cần, nếu phải khóc nhau, nếu đã đến lúc khóc nhau, thì xin hãy nhỏ lệ ấy, vào thiên thu. Để nuôi nấng, kiếp sau, lại tiếp tục bên nhau một vòng sinh tử.
Vì thế, với tôi, khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu, ngoài nghĩa nuối tiếc, đớn đau, còn hàm nghĩa, đó là giọt nước mắt của hẹn ước, là giọt nước mắt đợi tái sinh, là giọt nước mắt mừng vui của ngày gặp lại nhau, hạnh phúc!
KHÓC TA XIN NHỎ LỆ VÀO THIÊN THU!
Sài Gòn 25.09.2024
Phạm Hiền Mây
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét