CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 28 tháng 11, 2023

PHIẾM LUẬN VỀ BÀI BÌNH THƠ “TUỆ SỸ” CỦA BÙI GIÁNG - La Thụy

 Tiếc thương Hòa thượng Thiền sư Thích Tuệ Sỹ viên tịch chiều 24.11.2023. Trong niềm suy niệm về Tuệ Sỹ khi Thầy vừa tạ thế, chúng ta hãy cùng thắp nén hương cầu nguyện cho linh thức của Người được siêu thoát.
 

PHIẾM LUẬN VỀ BÀI BÌNH THƠ “TUỆ SỸ” CỦA BÙI GIÁNG

Trong quyển “ĐI VÀO CÕI THƠ”, Bùi Giáng viết về Tuệ Sỹ:
 
“Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u...
Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
 
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
 
Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ Ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:
 
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
 
Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
 
Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ “KHÔNG ĐỀ” của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ”

*
Có lẽ Bùi Giáng là người phát hiện và bình bài thơ KHÔNG ĐỀ này đầu tiên trong tập 1, ĐI VÀO CÕI THƠ.
Thế mà, bỗng dưng bài thơ biến cái tên thành KHUNG TRỜI CŨ và từ ngữ CUNG TRỜI trong bài thơ lại biến thành KHUNG TRỜI.
“Cung trời” như là một cõi trời, một cảnh giới còn “khung trời” chỉ là một không gian bị hạn chế, bị đóng khung…
 

CUNG TRỜI trong Phật giáo được biết qua sáu cõi, đó là:
 
1. Tứ thiên vương thiên.
2. Đao lợi thiên.
3. Dạ ma thiên.
4. Đâu Suất thiên.
5. Hóa Lạc thiên.
6. Tha hóa tự tại thiên.

“cung trời” đã nêu ở trên thuộc về Dục giới. Ngoài ra còn có Tam thanh thiên giới, Phạn Thiên giới, Vô sắc giới, Sắc giới nữa, gồm tất cả 36 cung trời.
 
Xin chỉ đề cập vài CUNG TRỜI nhiều người biết:
 
- Cung Trời Đao Lợi:
Đây là phẩm mở đầu của Kinh Địa Tạng. "Đao Lợi" là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là "tam thập tam", tức là chỉ cõi trời Ba Mươi Ba. Tuy gọi là cõi trời "Ba Mươi Ba", nhưng đó không phải do đếm từ dưới lên trên theo thứ tự, như tầng trời thứ nhất, tầng trời thứ hai, rồi đến tầng trời thứ ba,... cho tới tầng trời thứ ba mươi ba. Cõi trời Ba Mươi Ba này vốn nằm chính giữa, và ở bốn phía đông tây nam bắc của cõi trời này thì mỗi phía lại có tám cõi trời. Do đó, tổng cộng có ba mươi hai cõi trời phân bố chung quanh cõi trời Ba Mươi Ba.
Thiên chủ của cõi trời Ba Mươi Ba là Đế Thích. Trong Kinh A Di Đà có nói đến "Thích Đề Hoàn Nhân", tức là vị Đế Thích này vậy. Ngoài ra, trong Chú Lăng Nghiêm có câu "Nam Mô Nhân Đà La Da", thì Nhân Đà La Da cũng chính là Thiên Chủ Đế Thích. Ở cõi trời thì Đế Thích là một vị Thiên Chủ; còn trong Phật Giáo thì Ngài là một vị Hộ Pháp.
 
- Cung trời Dạ Ma:
Dạ Ma thiên (夜摩天)là tầng trời thứ ba trong sáu tầng trời cõi Dục. Cũng gọi Diệm ma thiên, Viêm ma thiên, Tu viêm thiên, Li tránh thiên, Tô dạ ma thiên (Phạm, Pàli: Suyàma), Tu dạ ma thiên.
Cung trời Dạ Ma là cõi trời này ánh sáng rực rỡ, không chia ngày đêm, người ở cõi trời này lúc nào cũng yên vui sung sướng không thể nghĩ bàn. Hơn nữa, theo luận Chương sở tri quyển thượng nói, thì tầng trời 33 (trời Đao lợi) thường đánh nhau với A tu la, nhưng cõi trời Dạ ma thì xa lìa sự tranh đấu, vì thế gọi là Li tránh thiên. Chúng sinh được sinh vào cõi trời này là nhờ đời trước thích tu các hạnh không giết hại, không trộm cướp, không gian dâm v.v..., tự mình giữ giới, lại khuyên người giữ giới, làm các việc lợi ích cho mình và người. Dạ ma là tầng trời đầu tiên (thấp nhất) trong các cõi trời ở trong hư không
 
- Cung trời Đâu Suất:
Đâu suất thiên  兜率天  thường gọi tắt là Đâu-suất, dịch ra Hán ngữ là Tri-túc thiên  có nghĩa là:
Tusita (skt)—Đâu Suất Đà—Tầng trời Đâu Suất, cõi trời Tri Túc hay cõi Tịnh Độ của Đức Di Lặc, nơi mà chư Bồ Tát tái sanh vào trước khi sanh vào cõi Phật
Cung trời Đâu Suất xuất hiện rất nhiều trong Kinh Quán Di Lặc Bồ tát thượng sanh Đâu Suất
Theo từ điển Phật học Hán Việt của nhà nghiên cứu Đoàn Trung Còn, từ Đâu Suất, Đâu Suất Đà có nghĩa là Tri Túc, Hỷ Túc, Diệu Túc, Thượng Túc.
Trước kia, Đức Thích Ca Mâu Ni chưa thành Phật, thì làm Bồ tát Hộ Minh ngự nơi Cung trời Đâu Suất. Chừng ngài từ giã cung Đâu Suất mà xuống trần làm Phật thì ngài phó chúc lại cho đức Di Lặc, dặn đức Do Lặc kế tiếp ngài nơi cung ấy mà giáo hóa chư Tiên và chư Bồ Tát.
 
- Cung Trời Hóa Lạc:
Hoá lạc thiên (化樂天) Phạm: Nirmàịarati-deva. Dịch âm: Ni ma la thiên, Duy na la nê thiên. Cũng gọi Hóa tự tại thiên, Hóa tự lạc thiên, Bất kiêu lạc thiên, Lạc vô mạn thiên, Vô cống cao thiên, Lạc biến hóa thiên. Tầng trời thứ 5 trong 6 tầng trời cõi Dục, tức là tầng trời ở dưới cõi trời Tha hóa tự tại và ở trên cõi trời Đâu suất. Vì người cõi trời này tự biến hóa ra 5 trần cảnh để vui chơi, cho nên gọi là Hóa tự lạc.
Cung Trời Hóa Lạc thiên cao hơn cung Trời Đâu Suất một bậc. Một ngày ở đây bằng 800 năm ở cõi người, chúng sinh ở đây có thọ mạng trung bình 8000 năm. Thân của chúng sinh ở đây phát sáng. Nam nữ ở đây cười với nhau là nữ thụ thai và trẻ con sinh ra trên đầu gối, nghĩa là hóa sinh, không phải thai sinh. Trẻ con vừa sinh ra đã bằng cỡ trẻ con loài người 12 tuổi.
 
Cung trời này cùng với các cung Dạ ma, Đâu suất, Tha hóa tự tại đều có 3 việc thù thắng hơn cõi Diêm phù đề là: sống lâu, xinh đẹp và vui thú.

*
Trong 2 câu thơ Bùi Giáng làm nối tiếp thơ Tuệ Sỹ:

“Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ,
Trí Hải đa tàm, trúc loạn ty.”

Cụm từ “Trí Hải đa tàm” được hiểu như thế nào đây?
 
- Cách hiểu thứ nhất:
 
“Đa”  nghĩa là “nhiều”
Tàm”  nghĩa là “con tằm / lông mày”
Đa tàm”   nghĩa là “nhiều lông mày”, “lông mày dày, rậm”
 
Trí Hải là tên ni cô được Bùi Giáng nhắc đến hai lần trong lời kể ở trên, nên cụm từ “Trí Hải đa tàm” có thể hiểu là “Trí Hải nhiều lông mày, lông mày Trí Hải dày, đẹp”
 
Đây chỉ là lời đùa cợt cho vui của Bùi Giáng. Mà Bùi Giáng đã từng đùa gọi ni cô Trí Hải là “mẫu thân Phùng Khánh” đó thôi:

“Trí Hải Ni Cô vừa rời bỏ Vạn Hạnh đi tu tiên ở trên núi. Nguyên nhân là: các vị sư ở Vạn Hạnh chế ni cô đã đẻ ra Bùi Giáng già nua, ni cô bẽn lẽn bèn giũ áo ra đi.
Sự tình nông nỗi ấy, Thích Minh Châu phải chịu trách nhiệm một phần lớn.
Phùng Khánh là bà mẹ loài người. Tôi là con người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là con vật?
Phân tích nghiêm mật luận lý học ra như thế, rành rành Phùng Khánh là mẹ của tôi.
Huống nữa là: trong cõi mộng mơ chiêm bao tại bình diện thi nhạc phiêu bồng, Phùng Khánh đích nhiên cũng lại là mẹ của tôi nốt. Tôi vốn là Trung Niên Thy Sỹ.
Ai đâu có ngờ rằng những bài thơ bất tử tôi làm ra là do Phùng Khánh cả đấy?
Mỗi phen tôi mơ màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên như nhiên thiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy.
Tôi suy ngẫm suốt bao nhiêu năm trời, nhận ra sự tình cố kỳ nhiên đó, mới dám mạo muội mạnh bạo gọi Phùng Khánh bằng một tiếng Mẫu Thân. Há đâu dám bốc đồng mà gọi bướng!”

                        (Trích: Bùi Giáng Thi Ca Tư Tưởng - Saigon 1969)


Cho nên, 2 câu thơ

“Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ,
Trí Hải đa tàm, trúc loạn ty.”

Trí Hải viết hoa, tức là ám chỉ tên của ni cô.
 
Có thể hiểu là:

“Nỗi lòng xôn xao nước mắt chua cay rơi
Nhìn đôi mày đẹp của Trí Hải làm tâm hồn rối như tơ.”

Tâm sự lâng lâng, dòng lệ chua cay
Trí Hải mày tằm, đàn trúc rối cung tơ

Phải chăng “Trí Hải đa tàm”, Trí Hải mày tằm với nhan sắc như thế đã lắm phen làm Bùi Giáng “mơ màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào”.
 
 - Cách hiểu thứ hai:
TÀM  nghĩa là hổ thẹn
Trí hải 智海 nghĩa là “biển trí”
Đa tàm多慚  nghĩa là hổ thẹn nhiều (trước, với)
“Trí hải đa tàm” nghĩa là “hổ thẹn nhiều trước biển trí”
 
Câu “trí hải đa tàm trúc loạn ty” có thể hiểu là “biển học mông mênh làm thẹn lòng vì đầu óc mình thiếu minh mẫn lúng túng như đàn trúc rối loạn cung tơ”


Trở lại 2 câu thơ đầu của Tuệ Sỹ

“Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
 Hiện tiền vi liễu lạc hoa phi”

Tuệ Sĩ đang nói về triết lý Nghiệp / Karma. Nghiệp thiện ác đã gieo, bây giờ (hiện tiền) tác giả bâng khuâng với “bóng nghiệp” nên trước mắt còn thấy liễu rớt hoa bay.
 
Nên hai câu thơ:

“Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ,
Trí hải đa tàm, trúc loạn ty.”

Có nghĩa:

 Tâm sự bâng khuâng, dòng lệ chua cay chảy
Thẹn lòng trước biển trí, đàn trúc rối loạn cung tơ 

Hiểu như vậy thì bài tứ tuyệt “Vô đề” ý mới liền mạch được.
Quý bạn nghiêng về cách giải thích nào nhỉ!

*
Xin dẫn những bài thơ có dùng chữ Đa tàm 多慚  (nghĩa là hổ thẹn nhiều)
 
Thơ Trần Tung:

Đa tàm thân trọc phùng thời trọc,
Tiểu tại tâm thanh ngộ quốc thanh.
                           (Thoái cư-Ẩn cư) 

Dịch:

Thân đục thẹn sinh thời buổi đục,
Lòng trong may gặp nước nhà trong.

Thơ Kiều Nguyên Lãng:

Thượng quốc ân thâm tình dị cảm,
Tiểu bang tục bạc lễ đa tàm.
               (Tống Bắc sứ Ma Hợp)

 Có nghĩa:

Ơn thượng quốc sâu sắc dễ cảm tình người,
Phong tục nước nhỏ đơn giản, thẹn lễ nghi có phần sơ suất. 

Thơ Trần Nhân Tông:

Nhất thị đồng nhân thiên tử đức.
Sinh vô bổ thế trượng phu tàm.
(Họa Kiều Nguyên Lãng Vận)

Có nghĩa:

Thương yêu mọi người như nhau là đức của Vua,
Sống mà không giúp ích gì cho đời là điều đáng thẹn của kẻ trượng phu.
 
Bùi Giáng viết nhiều tùy bút văn học, đặc biệt là tùy bút về thi ca.
Thơ của các thi sĩ được Bùi Giáng cảm nhận theo một phong cách riêng “rất Bùi Giáng” thật dí dõm. Tuệ Sĩ là nhà thơ đầu tiên được Bùi Giáng bình thơ trong tập ĐI VÀO CÕI THƠ. Bùi Giáng viết cảm nhận thơ như người bạn tri âm đồng điệu và bài TUỆ SỸ của ông để lại những “dư vang nghệ thuật” trong lòng người đọc.
                                                                                              La Thụy


PHỤ LỤC:
 
Viết và đăng bài lên một số trang web, thì tôi đọc được bài Giáo sư Nguyễn Đại Hoàng đăng trên trang face văn chương miền Nam (new). Xin chép lại:
 
Từ một bài thơ
GIÓ THỔI PHẬN NGƯỜI
Tùy bút Nguyễn Đại Hoàng

****
1.
Mấy năm trước, có một ngày trên trang Dr. TUẤN NGUYỄN - tình cờ tôi được đọc lại bài thơ tứ tuyệt tuyệt vời do mối lương duyên của hai vị hiền nhân kết lại mà thành.
Đó chính là bài thơ được trích dẫn dưới đây. Hai câu đầu là của thầy Tuệ Sỹ, hai câu sau là của Trung Niên Thi Sỹ Bùi Giáng:
 
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vi liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí hải đa tàm trúc loạn ty
 
2.
Bài thơ này được viết khoảng năm 1970 - hơn nửa thế kỷ rồi, nhưng vẫn chưa có bản dịch hoàn chỉnh- và thậm chí nhiều bản dịch sai đã được giới thiệu.
Trong nhiều trang, nhiều bài báo và sách vở, có giới thiệu bản dịch nghĩa như sau:
 
Đêm khuya gió thổi đùa bóng nghiệp
Trước mắt làm liễu lạc hoa bay
Tâm sự lâng lâng, lòng lệ khổ
Hổ thẹn với biển trí vì chưa thâu đắc được, 
RỪNG TRÚC RỐI NHƯ TƠ
 
Và sau đây là một trong những bản dịch thơ phổ biến nhất:
 
Ðêm thẳm gió đùa trêu bóng nghiệp
Nương về làm liễu lạc hoa bay
CHÍ  LỚN trạnh (*) lòng đau đáu lệ
TRÚC LOẠN chưa lìa biển Giác ai
(*) đúng ra là CHẠNH.
 
3.
Tôi nghĩ ý tứ bài thơ không phải vậy! Thầy Tuệ Sỹ và nhà thơ Bùi Giáng cũng không nói vậy. Hai thầy rất giỏi Hán Văn nên không thể có chuyện nhầm lẫn.
Có lẽ nhiều dịch giả đã hiểu TRÚC là CÂY TRÚC, và TY là TƠ! Nhưng làm làm gì có chuyện TRÚC CÓ TƠ mà rối, mà loạn?
Vậy thì vì sao quý vị ấy lại hiểu TY là TƠ?
Đơn giản có thể là vì quý vị ấy thấy chữ TÀM trong câu thơ- Trí hải đa TÀM trúc loạn ty - mà liên tưởng và hiểu đó là CON TẰM - con tằm thì có tơ.
Nhưng thực ra chữ TÀM trong bài thơ là chữ TÀM này -  có nghĩa là buồn tủi, xấu hổ. Chứ không phải là chữ TÀM  có nghĩa là con tằm.
Và TRÚC trong bài thơ là chữ TRÚC này -  là một loại nhạc cụ làm từ tre trúc, gọi là ĐÀN TRÚC.
Còn chữ TY trong bài thơ là chữ TY này -   có nghĩa là DÂY ĐÀN- có khi gọi là dây tơ, cung tơ.
Ngoài ra có thể hiểu theo một cách khác về TRÚC -  và TY  là 2 âm trong bát âm của âm nhạc xưa gồm có – kim, thạch, thổ, cách, TY , mộc, bào, TRÚC.
Nói tóm lại cụm từ TRÚC LOẠN TY- có liên quan đến âm nhạc!
Còn TRÍ HẢI ĐA TÀM- có thể hiểu đại ý là - dẫu người tài trí nhưng cũng tủi buồn nhiều, vì bể trí mênh mông không ngộ hết được.
Xét cả câu thơ “Trí hải đa tàm trúc loạn ty” – thì có thể hiểu là do tâm trạng buồn tủi, vì bể trí quá mênh mông, NHƯ đàn không đúng dây, hoặc là nhầm lẫn sai lạc trong các nốt nhạc- trúc gảy thành ty!
4. 
Thực ra nếu bài thơ được viết bằng chữ Hán thì những nhầm lẫn nói trên có thể đã không xảy ra! Bởi trong Hán văn có hiện tượng đồng âm khác nghĩa, và hiện tượng đồng hình khác nghĩa!
Nhưng ngày xa xưa đó hai thầy Tuệ Sỹ và Bùi Giáng viết bài thơ bằng chữ Hán Việt. Bởi vậy để quý bạn dễ theo dõi tôi xin chuyển sang bản chữ Hán như sau:
 
深夜風飄業影隨
現前為柳落花飛
飄蓬心事辛酸淚
致海多惭筑亂絲
 
(Về giai thoại nhà thơ Bùi Giáng có ý chơi chữ, dùng từ TRÍ HẢI - cũng là ni cô Trí Hải quản thủ thư viện của Đại Học Vạn Hạnh, khi ấy đang ở ngay lầu trên- đưa vào bài thơ để trêu thầy Tuệ Sỹ, tôi sẽ trình bày trong một bài viết khác, tất nhiên là với một bản dịch khác, tương thích với từ ngữ và phù hợp với tính chất, hoàn cảnh lúc đó. Trân trọng. NĐH)
 
5.
Bản tạm dịch đầu tiên của Nguyễn Đại Hoàng - một đêm mùa đông năm 1996
 
Đêm thâu gió thổi phận người
Mấy nhành liễu rớt một trời hoa bay
Phiêu bồng giọt lệ đắng cay
Tâm sầu đọng tiếng đàn say ngập ngừng…(*)
 
(*) Như trên đã nói, đây chỉ mới là bản TẠM DỊCH.
Những năm sau tôi có những bản dịch đã gần hơn với nguyên tác. Đó là những bản dịch các năm 2006, 2010 và 2016 - sẽ giới thiệu lại cùng quý thân hữu và các bạn trong những bài viết sắp tới.
 
Ví dụ bản dịch thứ 2 năm 2006:
 
Bóng nghiệp đêm dài gió lắt lay
Mấy hàng liễu rụng mấy hoa bay
Trăm nỗi phiêu bồng chua xót lệ
Trí tủi buồn- đàn cũng chơi vơi

———

Cõi trời của thầy Tuệ Sỹ nằm thẳm sâu trong tâm thức. Cõi trời của thầy Bùi Giáng nằm trong phiêu bồng gió bụi. Hai cõi trời này làm nên càn khôn vũ trụ. Nói cách khác đó là hai mặt của hư không. Của vô thường và hữu thường.
Một cơn gió thổi qua phận người làm nghiêng mấy nhành liễu rụng mấy cánh hoa bay. Một cơn gió khác làm rưng rưng những giọt nước mắt đời gió bụi.
Nhũng sợi tơ đàn phiền muộn rối ren rồi sẽ an nhiên- khi thuyền ra trí hải - biển lớn của tư duy- lặng lẽ và phiêu bồng!
Ngày xưa khi đọc được bài thơ này lòng tôi như hoát nhiên đại ngộ. Hóa ra tĩnh tại hay phiêu bồng là cùng một bản thể! Ý nghĩa bài thơ nằm ngoài ngôn ngữ - nhưng ta phải hình dung từ ngôn ngữ!
Người ta đã lý giải đã phân tích bài thơ trên rất nhiều. Bởi vậy bản dịch nghĩa cũng đã dần dần sáng tỏ. Nhưng những bản dịch thơ vẫn rất hiếm hoi. Mấy mươi năm rồi.
Thế mới biết từ một bản dịch nghĩa qua một bản dịch thơ là cả một chặng đường dài, rất dài.
Tôi vẫn tiếp tục tìm kiếm những bản dịch mới của các bạn và của chính mình.
Dịch thuật- gian nan và hạnh phúc là vậy!
---
Xin cảm ơn quý thân hữu và các bạn. Kính chúc một tuần mới bình an hạnh phúc.

                                                                   NGUYỄN ĐẠI HOÀNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét