CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2024

HỒ DZẾNH VÀ CHÂN TRỜI CŨ – Vũ Thư Hiên


Hồ Dzếnh - ảnh tư liệu.
 
Nhà văn Thanh Châu có một giang sơn riêng – một gác xép bằng gỗ ghép giống hệt gác xép của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái, người mà chúng tôi đặt cho ông một biệt hiệu tếu: “Ông Giê Su khốn khổ ở phố Hàng Thuốc Bắc”. Cao, gầy, xanh, với những nét sắc như vạc bằng rìu trên mặt, nhìn anh tôi gặp một bản sao tượng Chúa Chịu Nạn. 
 
Thời ấy nhiều nhà có thứ gác xép như thế. Nó tăng diện tích ở không nhiều, nhưng tạo ra một mảng riêng tư. Gác xép của Thanh Châu là phòng văn của ông, cũng là chỗ ông tiếp bạn, người nhà không hề lai vãng.
 
Để lên cái gác xép ấy phải leo một cái thang dựng ngược, bám cứng vào hai thành lung lay của nó mà nhích từng bước mà chui lên.
 
Từ khi cách mạng tiếp quản Hà Nội, Thanh Châu biến mất khỏi văn đàn. Đề tài, bút pháp lãng mạn nay đã không hợp thời, còn bị coi là nọc độc. Tác giả Tà Áo Lụa, Bóng Người Ngày Xưa… nay ngồi trầm tư nơi mảnh đất tự tạo bên bàn trà nhỏ đã lên màu cánh gián với bộ ấm đất gan gà cái nào cái nấy bé tí tẹo.
 
Người thường xuyên có mặt trên gác xép của Thanh Châu là Kim Lân, cây bút số một về chuyện đồng quê. Người thứ hai là Bùi Xuân Phái, tự xưng “nhát gan bậc nhất Hà Thành”, hễ gặp quá ba khách đến trước là vội vã bắt tay mỗi người một cái rồi ù té.
 
Từ cái lỗ vuông ấy, vào một ngày không còn nhớ, nhô lên một mái đầu chải ngược, đường ngôi rõ ràng, một khuôn mặt xạm đen với nụ cười phô những cái răng dài.
- Hồ Dzếnh đấy! - Thanh Châu nói khẽ với tôi.
Tôi không quên được hình ảnh ấy – nó gắn chết vào trí nhớ.
Con người lộc ngộc, xương to, thịt ít, ngồi xuống bên tôi:
- Vũ Thư Hiên?
Thanh Châu gật.
 
Chắc hẳn Thanh Châu, hoặc Kim Lân đã nhắc đến tên tôi nhân đụng tới thế sự văn chương. Và còn một lẽ nữa - trong các khách của Thanh Châu tôi ít tuổi nhất.
Chả là hồi ấy dư luận đang ồn lên với bài “Giương cao ngọn cờ tính Đảng, chống chủ nghĩa xét lại hiện đại trong văn nghệ” của nhà thơ Tố Hữu. Nó hứa hẹn một trận đánh, rất có thể là một “Nhân Văn - Giai Phẩm” thứ hai. Tôi được nêu tên với truyện ngắn Đêm Mất Ngủ. Cùng được xướng danh với tôi còn có Nguyên Ngọc và Ngô Ngọc Bội. Nguyên Ngọc có Mạch Nước Ngầm. Ngô Ngọc Bội có Chị Cả Phây.
 
Đêm Mất Ngủ bị Tố Hữu buộc tội “Phất cao ngọn cờ ấn tượng chủ nghĩa”Mạch Nước Ngầm có ý ám chỉ ngôi nhà chế độ có thể bị sập vì mạch nước chạy bên dưới dưới nó. Tội của Ngô Ngọc Bội sang hơn những tội bình dân của chúng tôi là quảng bá freudism. Chúng tôi trố mắt – không người nào biết Freud là ai, học thuyết Freud là cái chi chi, không trừ chính Ngô Ngọc Bội.
 
Tôi gặp may. Nếu một mình tôi bị điểm mặt thì nguy to.
Lời phê phán của nhà thơ lãnh tụ lần này tuy nhiên không gây ra đám cháy lớn. Dù sao mặc lòng, sau bài báo của Tố Hữu, các ông tổng biên tập, thư ký toà soạn liền cầm kính lúp soi từng chữ trong mọi thứ truyện được gửi đến.
 
Tôi tính vốn lành, đã không thích gây sự thì chớ, còn phải nói là nhát nữa, nhưng vì tên tôi được vua văn nghệ nhắc tới thì các truyện ngắn tôi gửi các báo đều bị trả lại. Hỏi vì sao thì các vị cầm trịch nhe răng cười.
Trong hoạ có phúc. Tôi không được in thì lại được tiếp chuyện các bậc đàn anh nhiều hơn.
 
Kim Lân phát mạnh vào vai tôi:
 
- Mặc mẹ nó! Được Tố Hữu đập, coi như “lúy” công nhận ông có chiếu trong làng văn. Hay chứ không dở.
 
Nói thế, Kim Lân phải tin tôi lắm. Câu ấy mà đến tai Tố Hữu thì không lôi thôi to cũng lôi thôi nhỏ. Được Kim Lân tin, tôi sướng âm ỉ.
 
Hiền lành một cục, thận trọng cũng một cục, thế mà có lúc Kim Lân cũng bị nện một trận nên thân với truyện ngắn “Con chó xấu xí”. Người trong giới viết lách xì xào: Kim Lân thâm. Kim Lân ám chỉ văn nghệ sĩ trung thành với đảng như con chó ghẻ xấu xí nọ. Nó còi cọc hết đường chê nhưng vẫn ra sức giữ nhà cho chủ, ấy thế mà vừa trơn lông đỏ da là bị chủ vật ra làm thịt. Một truyện ngắn cực hay, bằng giọng văn mộc mạc của người thôn dã, khó có thể tìm được một câu móc máy.
 
Kim Lân cười buồn:
- Cái bọn phê bình có cần chó gì nghệ thuật. Nghề của bọn ấy là bới. Cứ thằng nào viết văn không nổi là y như rằng nó quay ra làm phê bình. Nguyễn Tuân trăn trối:
- Này, đừng có mà chôn tôi bên cạnh một thằng phê bình đấy nhá!.
 
Nói cho công bằng, những nhà phê bình đôi khi cũng có ích ra phết. Không có họ độc giả không hiểu hết ý của tác giả, nhờ họ vạch ra mới thấy. Ấy là không kể những phê bình gia bịa ra những cái tác giả không hề chủ tâm. Như Văn Ngan Tướng Công của Vũ Tú Nam chẳng hạn. Các nhà phê bình nói Vũ Tú Nam chửi xỏ đảng, ví đảng như con ngan: “Bay không biết bay, bơi không biết bơi, chỉ nỏ mồm cạc cạc”.
Tôi biết Vũ Tú Nam. Là tín đồ mác-xít trung thành, con yêu của đảng, anh không hề có ý ấy.
 
Hồ Dzếnh có đọc Tố Hữu. Anh nắm tay tôi, bóp bóp vài cái. Ấy là ông ấy khen đấy, Thanh Châu giải thích.
 
Hồ Dzếnh chỉ ý nhị nhìn tôi, cười tủm tỉm. Sau mới biết ít khi anh tỏ thái độ khen chê ai, khen chê cái gì. Thanh Châu nói về Hồ Dzếnh:
“Của hiếm trong văn học. Bút pháp của ông ấy tôi muốn học cũng không được – là văn đấy, mà cũng là thơ đấy”.
 
Không nổi tiếng như Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Khái Hưng, nhưng Thanh Châu vẫn cứ là một bô lão trong nghề, được nhiều cây bút trẻ trọng vọng. Họ đến với anh như những tín đồ của văn chương lãng mạn hành hương về một quá khứ bị chôn vùi.
 
Thanh Châu bỏ bút đã đành, nhưng Kim Lân, trẻ hơn Thanh Châu cả chục tuổi, hoạ hoằn mới cho ra một truyện ngắn. Vì “ngứa nghề” (chữ của Kim Lân), chứ không phải vì nhuận bút. Nhuận bút bấy giờ còm cõi lắm. Đã thế lại chỉ có vài tờ báo nhận đăng thơ, hoặc truyện ngắn. Người muốn trở thành nhà thơ, nhà văn lại quá nhiều. Thiên hạ muốn cái tiếng cái danh, chứ nhuận bút họ không màng. Ấy là chưa kể để được đăng bài hay truyện ngắn những cây bút trẻ còn phải nghiến răng móc túi cho những bữa chiêu đãi các vị chức sắc ở các thứ toà soạn
 
Trong số khách văn của Thanh Châu, Hồ Dzếnh là một nhân vật không giống ai.
Anh lặng lẽ đến, lặng lẽ leo lên gác xép, trầm ngâm nhấm nháp trà quạu, không nói không rằng. Lối viết của anh đã không còn đắc dụng. Viết văn bây giờ là công tác phục vụ cách mạng, phục vụ công nông binh. Viết cái gì, viết thế nào, đã có đảng cầm tay chỉ việc. Mặc dầu không dính dáng với “Nhân Văn - Giai Phẩm”, nhưng Hồ Dzếnh vẫn bị lãnh đạo văn nghệ nhìn bằng cặp mắt nghi ngờ. Không thể tin bọn văn nghệ sĩ trước cách mạng – tất cả bọn ấy đều là những tên kém mười lăm phút đầy phản động.
 
Để yên thân, thỉnh thoảng Hồ Dzếnh cũng có vài bài thơ lập trường trên tờ Lao Động. Anh không bao giờ nhắc đến chúng. Chúng do một tên nào khác viết, không phải anh.
 
Tôi đọc Hồ Dzếnh rất sớm, lúc mới lên mười. Cha tôi thường mang về những cuốn Sách Hồng, loại sách dành cho trẻ con, mỗi cuốn là một chuyện cổ tích. Chúng được kể với giọng dí dỏm, dễ hiểu, rất lôi cuốn. Lại có cả một cuốn thơ nữa, không nhớ là của ai, trong đó có hai câu còn đọng lại lâu trong trí nhớ:
 
Hôm qua trời đổ mưa rào,
Mặt trời sợ ướt lẩn vào đám mây.
 
Cuốn sách đầu tiên, đích thực là sách, mà tôi được đọc, là Chân Trời Cũ.
Một ngày, mẹ tôi mua Chân Trời Cũ về. Bà đọc chăm chú, có lúc thừ người ra, lấy tay dụi mắt – bà khóc thầm.
Chờ cho mẹ đọc xong, bà quên nó rồi, khi bà đi vắng tôi mới dám lấy nó ra từ trong giỏ kim chỉ của bà. Lệ trong nhà là thế, trẻ con không được đọc sách người lớn.
 
Tôi không biết nói về cảm giác của tôi là thế nào khi đọc Chân Trời Cũ. Một nỗi xúc động bất ngờ trong tâm hồn trẻ thơ chăng? Có thể không phải thế, hoặc không rõ ràng là thế. Những câu chuyện bình dị về những kiếp người, được viết bằng thứ tiếng Việt chân chất, không uốn éo, không màu mè, gợi nhớ những gì tôi đã biết, đã thấy trong cuộc sống bé bỏng của mình. Chúng để lại trong tôi ấn tượng mạnh chưa từng có.
 
- Anh là người thày đầu tiên dạy tôi yêu văn – sau này, tôi nói với Hồ Dzếnh - Còn hơn thế, anh làm cho tôi hiểu tiếng Việt của ta đẹp đến là nhường nào.
 
Nghe tôi, Hồ Dzếnh cười bẽn lẽn. Tôi dùng đúng chữ phải dùng – anh bẽn lẽn thật sự. Mặt anh đỏ lên, mắt anh chớp chớp, anh lúng túng trước lời khen.
Những con người thật sự lớn bao giờ cũng mang trong mình một đứa trẻ.
 
- Anh hiểu tôi rồi đấy – anh khẽ nói với tôi, như nói một mình – Tình yêu đối với văn chương không bắt đầu bằng cái gì khác ngoài tình yêu ngôn ngữ. Chuyện để kể thì ai mà chẳng có. Nhưng để viết nó ra, cho nó có hình hài, cho nó sống dậy, cho nó đi lại, trò chuyện được với mọi người thì ngôn ngữ là cái quan trọng hàng đầu. Và duy nhất. Nó quyến rũ mình, nó hút hồn mình, nó rủ rê mình, và sau hết, nó xúi giục mình cầm lấy cây bút.
Tôi được nghe lời tâm sự này vào một đêm khuya ở ngôi nhà nhỏ của anh, số 80 Hòa Mã, khi Hà Nội đã ngủ yên.
 
- Tiếng Việt là âm nhạc, anh ạ. Thoạt kỳ thuỷ, những câu văn xuất hiện như một dòng nhạc. Nó ngân nga mãi trong đầu trước khi mình cả gan đặt bút lên trang giấy những con chữ đầu tiên. Nó là một cái gì đó mơ hồ, ta chưa thể hình dung, một cái gì rất mơ hồ, như mây như gió, ta không nắm bắt được nó, không làm chủ được nó, không sai khiến được nó, cái ấy cứ cục cựa không thôi ở trong đầu, đòi được thoát ra. Ta như bị bức bách phải cho nó đi xuống trang giấy, thành một vần thơ, hoặc một câu văn. Sau đó thì vần thơ ấy, câu văn ấy, sẽ tự kéo theo nó những chữ khác, những câu khác. Và cứ thế, một bài thơ, hay một truyện ngắn thành hình.
 
Tôi trích ở đây một đoạn trong Chân Trời Cũ tả người khách tha hương ngồi bên bến đò vắng tanh vắng ngắt trong chiều tà.
 
Giở nắm cơm ra nhai trệu trạo, đoạn đứng lên bắc loa miệng gọi đò: “Tồ ui!” Trời đã ngả màu tím. Khách không tin còn đò. Nhưng rồi con đò ở bờ bên kia cũng rời bến sang với khách. Đêm ấy khách được ngủ đỗ trong nhà cô lái đò tốt bụng.
 
“Mấy tiếng tù và khuya rúc lên, bay vào gian nhà vắng. Lắng biết mọi người đã ngủ yên cả, vị thần tử của giang sơn Trung Hoa vắt chân chữ ngũ, khe khẽ ngâm một bài thơ cổ, qua nỗi xúc động đột nhiên tụ lại trong người:
 
Uỵt loọc, vú thày sướng mủn thín,
Coóng phống, dì phố, tui sàu mìn,
Cú chấu sèng ngồi Hồn Sán sì.
Dề pun, chống séng tâu hác sin.
 
Bản Hán văn cổ:
 
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên,
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền
(Phong kiều dạ bạc, Trương Kế, đời Đường).
 
Ngay lúc ấy, từ gian buồng bên, nổi lên mấy tiếng gì như chuột rúc. Lữ khách, thấy đứt mạch cảm hứng, càu nhàu trong bóng tối:
- Ấy dà! Cẩm tố xỉ a! (Chà! Lắm chuột thế!)
Nhưng đó không phải tiếng chuột rúc. Đó là tiếng người con gái chở đò ban tối cười qua hai làn môi khép kín.
 
Cuốn Chân Trời Cũ gồm nhiều truyện ngắn, theo ghi chú của tác giả thì nó được viết vào tháng Giêng năm 1940, xuất bản lần đầu năm 1942. Nó được tái bản nhiều lần về sau này. Tôi rất nhớ hai câu kết của truyện ngắn Ngày Gặp Gỡ:
 
“Người khách sang sông chiều muộn ấy về sau này là cha tôi. Và cô lái đò, là mẹ tôi”.
 
Không hiểu sao mà câu sau cùng này lại biến mất trong lần tái bản sau cùng. Mà tôi cho rằng đó là câu khép chuyện hay nhất. Nó mới giản dị làm sao! Mới đẹp làm sao!
 
Tôi có lần viết ở đâu đó: “Tôi có hai người thầy: Hồ Dzếnh chỉ cho tôi thấy cái đẹp trong ngôn ngữ giản dị; Nguyễn Tuân, ngược lại, dạy tôi cách sử dụng những từ cầu kỳ đúng chỗ để tăng sức mạnh của câu văn. Cả hai cho tôi hiểu tiếng Việt là âm nhạc, đích thực là âm nhạc, với những tiết tấu riêng, với sự xen kẽ của những toàn hài và cung chướng để đưa người đọc đi xa hơn, cùng với liên tưởng bất giác để bay xa, vượt lên trên những con chữ”.
 
Hồi ấy, còn nhỏ, tôi chưa gặp thơ Hồ Dzếnh. Lớn lên, đọc anh tôi mới hiểu ra tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ theo nghĩa đen, đã ảnh hưởng tới anh mạnh đến thế nào.
 
Trời đẹp như trời mới tráng gương
Chim ca ánh sáng rộn ven tường
Có ai bên cửa ngồi hong tóc
Cho chảy lan thành một suối hương.
 
Một khúc khác:
 
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Ðể lòng buồn tôi dạo khắp trong sân,
Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần...
Tôi nói khẽ, gớm, làm sao nhớ thế!
 ...
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Tôi sẽ trách - cố nhiên! - nhưng rất nhẹ;
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề,
Ðời chỉ đẹp những khi còn dang dỏ.
 
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau ... lơ lửng ... với nghìn xưa....
 
Trời không nắng cũng không mưa, 
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung.
Chiều buồn như mối sầu chung
Lòng im nghe thoảng tơ trùng chốn xa
 
Ðâu hình tầu chậm quên ga
Bâng khuâng gió nhớ về qua lá dày
 
Bài Chiều được Dương Thiệu Tước phổ nhạc nhiều người thuộc nhưng không biết hay đã quên chính là thơ Hồ Dzếnh:
 
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
 
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây...
 
Tôi không rành lý luận văn học. Tôi cũng không có ý định nghiên cứu về văn Hồ Dzếnh. Cái đó không phải việc của tôi – tôi không có cả khả năng lẫn hứng thú. Tôi có đọc một số bài nghiên cứu về Hồ Dzếnh. Trong những bài này có khá đủ dữ kiện để người đọc biết về Hồ Dzếnh với tư cách một văn tài. Nhưng tôi còn muốn nhiều hơn – một chân dung Hồ Dzếnh, con người và cuộc đời. Sau khi được làm quen với Hồ Dzếnh, tôi tìm đọc lại vài tác phẩm của anh. Ngôn ngữ trong những tác phẩm ấy tất nhiên khác với ngôn ngữ hiện đại. Nhưng nó không lỗi thời. Cái đẹp vẫn còn đó nhờ sức mạnh của ngôn từ giản dị.
 
Năm 1986 Hồ Dzếnh vào Sài Gòn. Lần gặp gỡ này tôi được gần anh nhiều hơn những buổi tối ngắn ngủi ở ngôi nhà phố Hòa Mã. Ngắn ngủi là vì dù muốn nghe chuyện anh lắm tôi cũng không thể ngồi quá khuya, khi chị bắt đầu đi ra đi vào, có ý nhắc đã đến giờ anh đi ngủ.
 
Ở Sài Gòn hôm nào anh cũng đến rủ tôi đi ăn sáng. Bắt đầu bằng một bát phở ở một quán theo anh là rất tuyệt ở chân cầu chữ Y, đoạn đi tiếp, uống cà phê ở một quán khác, gần nhà hàng Bát Đạt trên đường Trần Hưng Đạo, theo anh, nó cũng tuyệt không kém. Một người bạn sành ăn sành uống đã cho anh lời khuyên, nó được anh nắn nót ghi vào mảnh giấy nhét trong túi ngực.
 
Tôi chở anh đi bằng xe Honda 67. Chúng tôi phóng vèo vèo trên phố xá. Ngồi sau, anh ôm cứng tôi, luôn cục cựa, hết quay phải lại quay trái. Không biết trong những chuyến cưỡi ngựa xem hoa với tôi những ngày ấy có làm anh nhớ đến Cô Gái Bình Xuyên năm 1945 hay không. Nó là tác phẩm lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất Hồ Dzếnh rời miền ký ức thân quen để bay lên những tầng trời tưởng tượng.
 
Một thư sinh Bắc Kỳ lạc bước vào Hòn Ngọc Viễn Đông gặp một nữ tướng cướp. Chàng yêu nàng. Nàng yêu chàng. Một hôm nàng đi ăn cướp, bị bắn. Xót nàng, băng bó cho nàng xong, chàng mới ôm nàng trong lòng, mới thủ thỉ bảo nàng hãy ở nhà, chàng sẽ đi làm công việc nguy hiểm ấy thay nàng. Nữ tướng cướp nghe chàng, cười rũ. Nàng ép đầu chàng vào ngực mà bảo: công việc ấy không phải để cho anh mà, anh hãy cầm số tiền này rồi về Bắc đi. Nơi này, việc này không phải dành cho anh.
 
- Tôi không giàu tưởng tượng – nhắc đến Cô Gái Bình Xuyên, anh giễu mình – Cái gì dính với tôi, với những kỷ niệm trong đầu thì tôi viết được, hễ bịa là y như rằng hỏng, anh ạ.
- Ờ, Cô Gái Bình Xuyên không tồi, nhưng với anh, tôi nghĩ nó là một thất bại. Nó không phải chất ruột của Hồ Dzếnh.
 
Tôi nói toạc, không sợ anh giận. Chúng tôi quen nói với nhau thật thà, không phải chọn chữ để không mất lòng.
 
- Nghề của mình là thế. Cái mình viết, ông ạ, đã thả ra là không cách nào đuổi theo để bắt nó về. Vì vậy mà viết xong tôi thường để đấy rất lâu rồi mới cho in.
- Nghĩa là anh còn nhiều bản thảo đắp chiếu?
Hồ Dzếnh cười, tránh câu trả lời.
 
 
 
Hồ Dzếnh viết thận trọng. Nhưng chỉ chừng ấy tác phẩm đã được anh thả ra cũng đủ làm phong phú thêm nền văn học mà ta quen gọi là văn học tiền chiến. Những gì anh viết còn cho ta thấy được một hiện tượng khác - ấy là một người nước ngoài hoàn toàn có thể sáng tác bằng tiếng Việt không khác gì người Việt.
 
Nghe nói người Hoa khuyến khích con trai Hoa lấy vợ Việt nhưng ngăn cấm con gái Hoa lấy chồng Việt. Chuyện này có thật - người ta làm thế là để bảo vệ nòi giống, và cả để mở rộng nòi giống nữa. Chẳng thế mà những người Tàu tha hương giữ gìn tiếng Hoa lắm lắm, cho dù có lưu lạc đến tận đẩu tận đâu trên địa cầu. Hơn bất cứ cộng đồng di dân nào, người Hoa coi mất ngôn ngữ là mất gốc. Tiếng bản địa đối với họ vĩnh viễn là ngôn ngữ thứ hai, chỉ đủ dùng trong giao tiếp là được, không cần hơn. Thời tôi, nhiều người Hoa thuộc thế hệ thứ ba thứ tư vẫn không nói sõi tiếng nơi mình sinh sống. Trường hợp Hồ Dzếnh là hãn hữu. Mặc dầu theo phong tục của người Hoa, anh ắt phải học và rành tiếng Hoa hơn tiếng Việt. Anh sáng tác được bằng tiếng Việt, lại cũng ắt hẳn, do anh có mẹ người Việt, và tiếng mẹ đẻ đã chiếm lĩnh toàn bộ tâm hồn anh.
 
Cuộc gặp gỡ nhiều ngày với Hồ Dzếnh ở Sài Gòn cho tôi hiểu anh thêm. Chúng tôi có đủ thời gian cho những chuyện tâm tình.
 
Cũng trong cuộc gặp gỡ này tôi mới biết trong sâu thẳm tâm hồn, Hồ Dzếnh có một vết thương khó lành và không đáng có. Dù anh đã có một chỗ đứng trong văn đàn Việt Nam, anh vẫn luôn cảm thấy có sự phân biệt: anh là nhà văn, nhưng là nhà văn người Tàu, hoặc tử tế hơn: nhà văn gốc Hoa.
 
Mặc dầu người Hoa đến Việt Nam đã ăn đời ở kiếp trên đất này, đã chôn nhiều thế hệ cha ông ở đây, đã được người bản địa hiền hoà mở rộng vòng tay đón nhận, coi như người trong gia đình lớn các tộc người cùng sống chung với nhau trên một mảnh đất, nhưng đã xảy ra không ít cảnh đau lòng.
Sử sách còn ghi trận quân Tây Sơn tàn sát một vạn sinh linh người Hoa ở cù lao Phố vào thế kỷ 18. Trong cơn thịnh nộ: “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho nó ngựa xe tan tác/ Đánh cho nó mảnh giáp không còn/ Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ”, đến đàn bà trẻ con người Hoa cũng không thoát khỏi lưỡi gươm thù hận.
 
Theo thống kê không mấy chính xác, năm 1978 và đầu năm 1979 đã có hai vạn rưởi người Hoa vượt biên giới phía bắc để trở về Trung Quốc. Nhà nước Trung Hoa đỏ đặt tên cho nó là “nạn kiều”. Tất cả bắt đầu bằng một tờ truyền đơn giả mạo tựa hồ của chính quyền Trung Quốc kêu gọi người Hoa mau mau trở về tổ quốc để tránh một cuộc “tắm máu” sắp xảy ra. Tờ truyền đơn do một tên vô danh tiểu tốt ở Quảng Ninh học tiếng Trung ở Nam Ninh (Trung Quốc) thảo ra, dưới sự khuyến khích của tên quan thầy nắm công tác tổ chức ở trung ương. Tác giả tờ truyền đơn về sau leo tới một chức vị rất cao trong hệ thống nhà nước. Công lao của y là đã đuổi được hàng vạn người Hoa ra khỏi Việt Nam mà không tốn một viên đạn.
 
Thế là những con người đã ăn đời ở kiếp trên đất nước ta bồng bế nhau, dắt díu nhau, bỏ ruộng, bỏ vườn, bỏ nhà cửa, bỏ mồ mả cha ông chạy về nơi mà tổ tiên họ đã từ đó ra đi. Ở mảnh đất bỏ lại sau lưng ấy, những địa danh chỉ còn được mơ hồ nhớ tới trong những truyền thuyết và những chuyện kể về đêm của những ông già bà cả. Giờ đây họ mếu máo chạy về một chân trời xám xịt đầy một màu máu của đủ các thứ cách mạng long trời lở đất, hết phản cái này đến diệt cái khác mà họ được nghe từ những đồng bào trốn qua biên giới.
 
Tổng số người Hoa rời khỏi Việt Nam từ Bắc chí Nam trong thời kỳ này lên tới gần một triệu trong số gần hai triệu người Hoa từng sinh sống ở Việt Nam, theo một con số thống kê.
 
Kim Lân là bạn thân của Hồ Dzếnh. Thế mà có những tâm sự chua xót Hồ Dzếnh chưa hề nói với bạn. Không phải anh có điều gì phải giấu. Chỉ là anh không muốn nói, không muốn kể những chuyện đau lòng.
 
Tôi may mắn hơn Kim Lân. Tôi được nghe anh kể những gì đã xảy ra với anh trong năm 1978:
 
- Tờ truyền đơn ấy có tác động kinh khủng lắm, anh ạ. Người ta tin nó là thật. Họ chép lại, trao tay nhau, thế rồi một đồn mười, mười đồn, cứ thế loang xa. Người Hoa ùn ùn kéo đi. Có gì trong nhà cũng mang bán cho bằng hết, bán rẻ như cho. Rồi lùng sục mua vàng. Nhẫn một chỉ, nửa chỉ, vài đồng cân, mua tất, không cân kẹo, không phân biệt thật giả, giắt tất tật vào lưng quần. Lưng đeo ba lô, vai khoác tay nải, họ dắt díu nhau lên đường. Nước mắt lưng tròng, họ hối hả đi, thất thểu đi. Thảm lắm, Tội nghiệp nhất là những gia đình Hoa Việt - chồng đi, vợ ở lại, vợ đi, chồng ở lại. Những đứa con mếu máo chia tay nhau, đứa đi đứa ở, xảy đàn tan nghé. Tôi có anh bạn bác sĩ đông y người Hoa, vợ Việt, hai đứa con, một trai một gái. Anh chồng mang theo con trai, vợ ở lại với con gái. Bao nhiêu là nước mắt. Chia tay họ, tôi khóc ròng”.
 
- Còn anh thì sao? – tôi hỏi.
- Tôi không đi.
- Tất nhiên, anh còn đang ngồi đây với tôi mà.
 
Hồ Dzếnh thở dài:
- Tôi không thể đi. Nơi này là quê hương tôi, là đất nước tôi, là tình yêu của tôi. Tôi không thể bỏ.
- Những người ra đi không lôi kéo anh?
- Có chứ. Người ta đến nhà rủ tôi đi cùng. Hằng ngày. Người ta thương tôi, lo sợ cho tôi.
- Còn chính quyền?
- Chính quyền?
- Người ta có làm khó anh nhiều không?
- Có đấy. Họ đến nhà, giục gia đình tôi đi. Không phải một lần. Tôi lánh mặt. Họ hỏi vợ tôi: “Bao giờ ông bà mới chịu đi?” 
 
- Chị trả lời thế nào?
Nhà tôi bảo:
- Tôi không biết. Thuyền theo lái, gái theo chồng, câu ấy chẳng lẽ các ông không biết. Trong nhà ông nhà tôi là người quyết định, không phải tôi. Các ông đi mà hỏi ông ấy!
- Ông ấy không chịu giáp mặt chúng tôi. Chúng tôi biết thừa – ông ấy đang ở trong nhà.
- Tôi thật, giấu các ông  làm gì. Nhà tôi đi từ sớm, lúc tôi còn ngủ. Thức dậy đã không thấy ông ấy đâu. Chắc ông ấy không ngủ được, dậy xong là đi. Các ông thử tìm ở mấy quán cà phê xem có ông ấy có đấy không?
- Rồi họ cũng tóm được tôi – anh kể tiếp – Bảo tôi đi theo. Đi thì đi. Ngồi lên command-car, hai người của chính quyền ngồi hai bên. Như sợ tôi chạy. Họ đưa mình đi đâu đây? Xe rẽ vào Hỏa Lò, anh ạ. Cái Maison Centrale khủng khiếp này người Hà Nội có ai không biết. Tôi tự hỏi: “Mình làm gì mà họ bắt cơ chứ”?
 
Xe đỗ lại trong một cái sân rộng.
Tôi hình dung cái sân Hỏa Lò sạch bong với mấy dàn nho queo quắt. Tôi đã đứng trong cái sân này khi đi thăm cha tôi vào thời thuộc Pháp. Tôi cũng đã đứng đây chờ được đưa vào xà lim, thời cách mạng.
 - Theo chân họ, tôi bước vào một căn phòng trống huếch trống hoác, ở tường hậu có một cái bàn giấy – Hồ Dzếnh kể -  Lấy thêm ghế, phân ngôi chủ khách. Chủ ngồi trong. Tôi ngồi ngoài. Mời uống trà. Thuốc lá sang, Thăng Long bao bạc hẳn hoi. Chuyện trên trời dưới đất.
 
Sau hết, người ta mới vào đề:
- Anh nhất định không chịu đi?
- Tại sao tôi lại phải đi?
- Người Hoa đi cả, anh ở lại làm gì?
- Nhà tôi ở đây, vợ con tôi ở đây, đi đâu? Việc gì tôi phải đi? tôi nói.
 
Họ nhìn nhau, cười. Cứ như họ nghe một câu trả lời ngớ ngẩn của người điên. Tôi bặm môi lại, không nói thêm nữa. Nói làm gì? Có nói họ cũng chẳng hiểu. Với họ, tâm hồn con người là thứ vớ vẩn, họ không thể hiểu, không thèm hiểu. Rồi họ đứng lên, ra hiệu cho tôi đi theo.
Anh im lặng, nhớ lại.
 
- Họ đưa anh đi đâu?
- Qua một cửa lớn nhiều song sắt. Rồi một cửa nhỏ, cũng song sắt. Nó dẫn vào một hành lang mờ mờ tối, hai bên là những cánh cửa sơn xám có then cài với những cái khóa bằng đồng.
Tôi thảng thốt:
- Đó là khu xà lim 1, còn gọi là Xà lim Án chém. Tôi từng bị giam ở đấy. Họ cũng giam anh ở đấy à?
Hồ Dzếnh trầm ngâm. Rồi cười buồn:
- Lúc ấy tôi cũng nghĩ thế - mình sẽ bị giam ở đây. Nhưng không, họ không giam tôi. Một trong hai người có vẻ là cấp trên mở nắp cái ô nhỏ bên trên cánh cửa, kiễng chân nhòm vào, rồi ra hiệu cho tôi nhòm theo. Cái lỗ quan sát ấy tôi biết qua sách. Người Pháp gọi nó là le judas. Tôi không phải kiễng chân, tôi cao hơn anh ta, Nhòm vào, tôi giật bắn mình - bên trong là một cái xác trần truồng, gày đét. Nghe động, cái xác hé mắt. Hoá ra là một người sống. Tất nhiên, anh ta không nhìn thấy tôi, cái lỗ ấy chỉ cho anh ta thấy hai con mắt. Tiếp theo, họ mở thêm vài cái ô như thế nữa, vẫy tôi lại, nhưng tôi lắc.
 
 - Rồi sao?
- Họ đưa tôi về nhà, cũng trên chiếc command-car ấy. Trên xe, chúng tôi không ai nói với ai câu nào. Chỉ khi mở cửa xe cho tôi xuống, người công an cấp trên mới đặt tay lên vai tôi: “Anh thấy rồi đấy – anh muốn về Tàu hay muốn ở lại trong cái chỗ anh vừa thấy?”
Câu chuyện Hồ Dzếnh kể làm tôi bàng hoàng.
Lại thêm một cái không thể ngờ có thể xảy ra trong cuộc cách mạng mà tôi đi theo từ thuở thiếu thời. Những người mà tôi từng gọi là đồng chí bên trong cái vỏ bọc cách mạng đẹp đẽ đã hành xử tàn nhẫn đến thế đấy, bất nhân đến thế đấy. Với một người viết văn không hề chống lại họ. 
 
Đoạn hồi ức này không có tham vọng nào hơn là thêm vài chuyện vặt vào những gì nhiều người đã viết về Hồ Dzếnh.
Lần gặp anh ở Sài Gòn là lần cuối. Sau đó chúng tôi cũng không có thư từ, điện thoại cho nhau.

*  *  *
Tháng 8 năm 1991, tôi ở Warszawa.
Một buổi chiều, sau khi uống cà phê ở quán U Szweika (Ở nhà ông Szweik) trên quảng trường Konstytucji, tôi thả bộ tới đường Marszałkowska thì một chiếc taxi trờ tới. Ắt hẳn anh lái nghĩ tôi là một du khách đang lớ ngớ tìm đường.
 
Vừa ngồi vào xe, tôi thấy bên mình một tờ báo tiếng Việt.
 
Một hàng tít lớn đập vào mắt: “Nhà văn Hồ Dzếnh không còn nữa”.
 
Xem ngày tháng thì thấy tờ báo mới ra hôm qua. Chắc hẳn người khách trước tôi đi từ phi trường Okiecie vào thành phố đã bỏ lại.
 
Tôi bàng hoàng. Tôi ít khi nghĩ tới cái chết, cho mình, cũng như cho những người tôi quen biết. Sự sống vốn chẳng là vô hạn với bất cứ ai – biết là thế, nhưng bất ngờ vẫn cứ là bất ngờ. Thậm chí trong hành trang của tôi vẫn còn đấy cái đồng hồ quả quít cổ mặt sứ tôi mua ở chợ Donbass để gửi cho Hồ Dzếnh. Có lần nào đó anh nói với tôi anh thích đồng hồ quả quít hơn đồng hồ đeo tay. Nó gợi nhớ cái đồng hồ của cha anh - vật còn lại lâu hơn mọi thứ khác sau khi cha anh qua đời và mẹ anh phải bán đi tất cả.
 
Tôi nhoài lên ghế trên, hấp tấp nói lại địa chỉ. Thay vì về nhà, tôi bảo anh tài xế đưa tôi đến chỗ khác. Ở trụ sở thương vụ Việt Nam tôi có thể nhờ gửi tin nhắn bằng telex nhanh nhất về cho con rể.
 
Các con tôi đã có mặt thay tôi tiễn đưa nhà văn mà tôi yêu mến đến nơi an nghỉ cuối cùng.
 
Thêm một lần, tôi tin ở tâm linh. Nó có thật hay không có thật tôi không biết. Bằng sự tình cờ hi hữu, Hồ Dzếnh gửi cho tôi lời nhắn cuối cùng:
 
Tôi đi đây. Chào nhé!”
 
                                                                                        Vũ Thư Hiên
                                                                                               2016
.................................

Những tác phẩm đã xuất bản của Hồ Dzếnh:
 
- Quê Ngoại (thơ, gồm những bài góp nhặt từ năm 1935 đến 1942, xuất bản năm 1943);
- Hoa Xuân Đất Việt (thơ);
- Chân Trời Cũ (tập truyện ngắn, xuất bản năm 1942 (nhà xuất bản Hoa Tiên);
- Một Truyện Tình 15 Năm Về Trước (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh (nhà xuất bản Hoa Tiên)
- Hai Mối Tình hay Tiếng Kêu Trong Máu (truyện dài, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh (nhà xuất bản Hợp Lực, 1968);
- Dĩ Vãng (tiểu thuyết)
- Những Vành Khăn Trắng (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh);
- Đường Kẽ Mãnh (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật, số 187, 12-12-1943);
- Nhà Nhiều Con (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật, số 206, 11-6-1944).
- và nhiều truyện ngắn khác đăng rải rác trong các giai phẩm xuất bản thời tiền-chiến.


Nguồn:
https://hon-viet.co.uk/VuThuHien_HoDzenhVaChanTroiCu.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét