Nhà thơ Nhã My
Tiểu sử sơ lược:
Tên thật Lâm Thị Ngọc Sương
Sinh năm 1953
Quê quán Bến Tre
Nhỏ học trường Trung Học Công Lập Kiến Hoà.
Học đại Học Sư Phạm Cần Thơ và Văn Khoa SaiGon.
Thời nhỏ ở bậc trung học có tập tành viết văn,làm thơ đăng trong báo thiếu nhi và báo văn nghệ ở Saigon với nhiều bút hiệu.
Sau năm 75 gặp nhiều biến cố gia đình và vì việc làm ăn sinh sống nên ngưng viết.
Xuất cảnh sang MỸ năm 1997 và tới năm 2010 viết trở lại trên blog cá nhân Suong Lam yahoo.blog vói 2 bút danh Nhã My & Sương Lam.
Đã in:
Khung Kỷ Niệm (Thơ chung với bạn blog 2012)
Khơi Xa(Thơ 2014)
Có 75 bài thơ đã được phổ nhạc (do quý nhạc sĩ Phan Ni Tấn ,Trần Quang Lộc,Vĩnh Điện, Nguyễn Hữu Tân,Phạm Minh Cảnh, Thảo Nguyên,Bùi Tuấn Anh, Thanh Chương, Trần Nhàn, Thái Thành...)
Sau năm 2014 vì lý do sức khoẻ và công việc nên ngưng viết chỉ thỉnh thoảng xướng hoạ với bạn bè và đăng bài trên các trang văn nghệ mạng và vài tờ báo văn nghệ hải ngoại (Thư Quán Bản Thảo, Thế Giới Mới, Văn Học Mới..)
Hiện sinh sống ở Washington là chủ trang Blogspot của Nhã My và 2 trang riêng Thơ Văn Nhã My, Thơ Phổ Nhạc Nhã My.
NHÃ MY, THI CA & THI NHÂN
Khanh Tương và Chu Vương Miện thực hiện
“Khơi Xa” là thi phẩm đầu tay của nhà thơ nữ Nhã My, đựợc Nhà Xuất Bản Văn Học ấn hành vào ngày 30 tháng 12 năm 2014, phần mở đề giới thiệu tác phẩm là nhà thơ Nguyễn Khôi, vị thi nhân lão làng cuả thời hiện đại bây giờ, ông viết:
“Về nghệ thuật, Nhã My làm thơ thuộc diện “người có tuổi, nghệ có nghề, một thứ thơ bàng bạc, lãng đãng và một chút ly tao của một thoáng ‘trung niên thi sĩ’ Bùi Giáng của một lớp thi nhân đầy nữ tính, để cho tình mãi mãi không phai, sầu muộn mà không bi luỵ hồn thơ chân thật tình đời, lỡ tình nhưng không hận tình… tất cả chỉ còn ‘hoài niệm’ những nét vàng phai thương nhớ.
Thơ Nhã My ngôn ngữ tinh luỵện cổ phong với những hình tượng đẹp , thể loại đi với ý thơ luôn mới để tạo ra tứ lạ “ mỗi bài một kiểu , một giọng điệu khác nhau “ nên đọc không nhàm chán.”
Góc thành Nam Hà Nội, 27 /08/ 2014
Nguyễn Khôi
(Nhà văn Hà Nội)
Thi sĩ Bùi Khánh Đản trong giai phẩm Văn Hoá Ngày Nay của cố văn hào Nhất Linh xuất bản ở miền Nam khoảng năm 1958 có làm 2 câu thơ Đường Tàu tuyệt vời tả về Hoa “nhất là hoa lan”
Tụ kết tinh anh của gió sươngMuôn mầu muôn vẻ thoảng muôn hương(Bùi Khánh Đản)
Chỉ cần 2 câu thất ngôn mà diễn tả đầy đủ về các loài hoa không thừa và cũng không thiếu một chữ nào. Thơ của Nhã My có thể tạm chia ra làm hai loại “thơ Tình và thơ Thiền”, chuyện cũng không có gì là lạ, là con ngừơi thì đương nhiên là phải có tình, trước nhất là tình người, tình nam nữ, tình quê hương, tình nhân loại…
Chúng tôi tạm lược qua thơ “Khơi Xa” và trích những đoạn thơ tiêu biểu:
Em lạc mấy mùa trăng cố xứHồn đi hoang lữ thứ xa đưaNhớ thương một mái nhà xưaBên hiên tiếng võng mẹ đưa trĩu lòngTrời viễn xứ buồn trông quê cũĐể nỗi buồn ủ rủ chiều mưaĐâu rồi một tiếng gá trưaGáy bên hàng dậu lưa thưa bồi hồi(Trích Khơi Xa trang 32)Lời thề buổi ấy còn mang nặngNhưng đủ buộc đời ta nhớ taMười năm chẳng thể dài hơn nữaMà ngắn bao nhiêu ước mộng đầuTa gói thời gian trong lớp bụiĐã màu rêu úa lạnh đời nhau(Trích Mười Năm trang 37-38)Người đi một bóng bơ vơNgười về nghẹn với câu thơ ngậm ngùiTừng đêm đếm giọt buồn rơiTừ xa độ ấy nửa trời ngóng trông(Trích Nợ - trang 47)Đời chia đôi ngả tình không hẹnMột bến sông Tương nhớ não lòngMưa qua định mệnh buồn day dứtTa phụ nhau rồi em biết không …?Người ở đầu sông ngóng cuối sôngHẹn nhau mà có được tương phùngTóc xanh đã nhuốm mầu mây bạcVà ánh mắt sầu tiếc mông lung(Trích Ta Phụ Nhau Rồi cảm tác bàiĐêm Trắng của Hoàng Yên Linh trang 118)
Đọc đoạn thơ trên, ngừơi viết chợt nhớ tới bài thơ “Tình Sử 2” tác giả Vô Danh Thị trong Cổ Văn Quan Chỉ Trung Quốc có 4 câu như sau:
Quân tại Tương Giang đầuThiếp tại Tương Giang bánCùng nhậm thủy Tương GiangThiếp chàng cùng khố nạn
Tạm dịch:
Chàng ở đầu sông TươngThiếp ở giữa sông TươngCùng uống nước sông TươngCả hai cùng lạc bạn(Bản dịch của M.Loan Hoa Sử)
1 trà 1 rượu 1 đàn bà3 cái lăng nhăng nó quấy taChừa được thứ nào hay thứ ấy ?có chăng chừa rượu với chừa trà(Thơ Trần Tế Xương)
Nói về cái Nghiệp, chúng tôi xin kể một câu truyện ngắn của nhà văn Phan Văn Tạo, vị này viết rất khá, nhưng không có duyên với chữ nghĩa, nên rất ít ngừơi quan tâm và đề cập tới sự nghiệp viết lách của ông, cốt truyện như sau đây đã được đăng trên tờ Bách Khoa không rõ năm nào tháng nào và số nào ?
Có một vị trung niên không rõ là nhà giáo hay công chức, khi không dở chứng mần văn chương, ngoài giờ làm việc nhà nước, về nhà giải quyết ba cái linh tinh lang tang như tắm rửa cơm nước thì ngài vào phòng riêng trứ tác ‘viết văn’, bà vợ thì rất trân trọng cái nghề viết lách cao quí này của ông chồng, nên khi thấy ông ngồi xuống bàn viết thì bà lo quạt cho ông mát , pha trà cùng cà phê, để ông bồi dưỡng , mua thuốc lá cùng bật diêm để ông hút thuốc, Lâu lâu còn đấm lưng cho ông ‘thư dãn nở’, bà có bổn phận chép tay lại bài truyện ngắn của ông, rồi đưa ông đọc lại, xong ông gật đầu thì bà theo địa chỉ tờ nguyệt san giá trị nhất thời bấy giờ là tờ Bách Khoa, rồi gửi bài đi, cả nửa năm không thấy đăng gì cả. Bà sốt ruột viết một bức tâm thư gửi cho ông chủ bút là nhà giáo Lê Ngộ Châu nội dung như sau:
“Thưa Ông chủ bút nguyệt san Bách Khoa, tôi là vợ của nhà văn chưa lừng danh và cũng chưa từng được đăng báo nào cả, ngày ngày ông chồng tôi viết văn thì tôi lo quạt cho ông mát, đấm lưng bóp chân, nấu nước pha trà cùng cà phê để ông uống. mua thuốc lá cho ông hút, nhưng những bài của ông sáng tác gửi đi các báo, chưa có tờ nào đăng cho cả, có một điều thực lòng xin được trình bày cùng ông chủ bút, nếu có gì sai phạm mong ông thứ lỗi cho, xin hỏi một Trang Quảng Cáo của quí báo giá là bao nhiêu ? một truyện ngắn của chồng tôi khoảng 10 trang, tôi xin bỏ tiền ra chịu chi phí ‘cứ coi như là đăng quảng cáo, cáo phó ma chay hiếu hỷ...’ Trân trọng kính chào ông chủ bút.”
Một tuần sau thì bà nhận được một thư hồi âm cùa toà báo:
“Tôi là chủ bút Lê Ngộ Châu trân trọng phúc dáp thư của bà đề ngày… chúng tôi rất cảm động cái chân tình của bà dành cho ông nhà, nhưng theo ý tòa soạn thì chính bà mới là nhà văn, nếu bà cho phép thì chúng tôi sẽ cho đăng bức thư của bà gửi cho chúng tôi, vì chính bà mới thực sự là nhà văn, còn ông thì chưa phải, nếu bà có bài đăng trên tạp chí của chúng tôi, chúng tôi sẽ gửi tiền nhuận bút đến bà.
Kính thư Lê Ngộ Châu”
Trở lại thơ thoát tục, thanh thoát bước đầu của thơ Thiền, xin điểm sơ qua những đoạn thơ này của Nhã My:
Vách trời mờ mây phủLối nhỏ uốn lên đườngEm về chiều thu vắngChim vạc buồn kêu sươngTừng hàng cây trút láVàng bay trong gió đưaCung đàn rơi huyền hoặcÂm thầm vọng xa xưaLang thang chân em bướcThinh lặng bóng chiều mưa(Trích Chiều Thu trang 16)Mai kia rồi cũng phù vânMây bay đầu núi tần ngần ngó theoGập ghềnh mấy nẻo cheo leoDốc đời lên xuống mộng treo lá vàngGió đưa một trận phũ phàngLá rơi hoa rụng sầu mang kiếp ngườiThì thôi ôm lấy nụ cườiChôn trong những lối cuộc đời mà vui(Trích Phù Du trang 45 -Tặng chị Hạt Cát)Sách nằm hờ hững trên tayLật trang nhân thế tháng ngày phù dGối tranh cát bãi sa mùTrắng mây một cõi phù du đi về(Trích Sách trang 58)Biết còn gì nữa hôm nayĐôi tay nào víu viễn hoài mông lungSóng đưa lớp lớp nghìn trùngHỏi người xa có tương phùng người xa(Trích Hư Không trang 59)Cô liêu bãi vắng biển chiềuXa xăm sóng vỗ đìu hiu cuối bờHồn tôi hạt cát hoang sơLời trăm năm đã bây giờ phôi phai(Trích Đoản Khúc Cô Liêu – trang 73)Chiều xa người đã đi rồiLòng tôi con nước cuối đời vẫn trôiEm giờ bờ vắng đơn côiTình trăm năm có đắp bồi đủ không ?(Trích Chiều Xa – trang 77)Bên trời viễn xứ loay hoayMù xa cố lý trắng mây nghìn trùngtrông vời một cõi mông lungbiển xanh thuyền nhỏ chập chùng sóng đưanghe từ trong giấc mơ xưatiếng ru của mẹ giữa trưa giọng buồn(Trích Cố Lý – trang 99)
Những bài thơ phần sau thơ Tình, mượt mà thanh thoát và âm điệu cũng du dương trầm bổng tư tưởng cũng thoáng đạt, ở đây bài “Thi Ca Thi Nhân” chúng tôi chỉ là M.C giới thiệu chung chung về tác giả thơ hoặc văn, ca sĩ với nhạc sĩ, trước quần chúng để những nghệ nhân này biểu diễn “hoặc trình bày” sự thành công bao nhiêu, là tuỳ mỗi nghệ nhân, quần chúng sẽ đánh giá thấp cao về chất lượng, chúng tôi không làm việc này, cho sự giới thiệu nhà thơ Nhã My được vô tư và công bằng.
Và để kết thúc bài viết này chúng tôi mượn lời Bạt của nhà thơ Kha Tiệm Ly:
“Tóm lại nếu gác ra ngoài dăm ba bài thơ chủ đề khác, thì Khơi Xa là một chuyện tình buồn. Nó mượn tay tác giả để thành những vần thơ ai oán não nùng !…. Lời Bạt này chúng tôi chỉ viết theo sự nhận xét kém cỏi của mình. Có điều gì không mãn ý, xin quý bạn đọc xem qua với lòng độ lượng”
Xếp tập thơ Khơi Xa của nhà thơ Nhã My lại, chúng tôi có nhận xét cá “thịt” nhân như sau:
“Phần vào đề thì nhà thơ lão làng Nguyễn Khôi và phần cuối tập thì nhà thơ cao ngạo Kha Tiệm Ly, hai cây bút đều thuộc vào loại “một cây xanh rờn” chỉ có thua Cọp.
Ôi cái văn nghệ văn gừng, là làm dâu trăm họ, ở cái cõi đời ô trọc này dễ gì kiếm được người tri âm “tri dương” tri kỷ, tài danh như vua cổ Thất Huyền Cầm Bá Nha mà cũng chỉ có một người bạn tri âm là Chung Tư Kỳ, đến khi Chung Tử Kỳ qua đời thì Bá Nha đàn lần chót trước mộ Tử Kỳ rồi đập cây cổ cầm trên đá không bao giờ đàn nữa ?
Cuộc đời nước chảy huê trôi, vốn bạc bẽo, xe trước xe sau đều đi vào con đường cụt, vừa phù du vừa phù vân, nhưng đã là dòng sông thì phải chẩy thế thôi ?
Khanh Tương & Chu Vương Miện
PHỤ LỤC THƠ NHÃ MY
BUỒNbuồn, ngơ ngác thả theo chùm mây lạcphố lên đèn những đóm đỏ, đóm vàngtay run rẩy chạm từng vùng ký ứcthơ vụng về theo con chữ lang thangmây thì trắng và hồn đau cũng trắnggió trùng phương có ngừng lại nơi này ?em huyền dịu ẩn chìm bờ mộng mịta vói tìm đau đáu mấy màu trăngbuồn, lặng lẽ dối mình như chẳng biếtem vô tình như con nước êm trôichiều tản mạn bến bờ xưa heo hútnước vẫn trôi biền biệt nhánh sông đờita cứ hỏi biết em về phương ấylối mù xa còn đọng chút ân tình ?hay cứ để dư âm lời thương nhớvọng tiếng buồn ta nghiêng ngả hư haoHÔN PHỐICuối cùng rồi cánh bướm cũng cắn xuống ngực hoaGió cuốn mênh mang sương mềm mỏng ướtTrăng mơ màng soi nửa trời hẹn ướcHoa bàng hoàngLời tình yêu mật ngọtTrời đất chơi vơiNgày cõng bình minh sao trở về quá vộiNHAN SẮCĐã chắc gì lụa mỏng hơn da emMàu nguyệt bạch của trăng non vừa mới chiếuĐã chắc gì hương cỏ hoa thơm hơn mái tóc mềmĐã chắc gì những sắc màu hội họaKhi người họa sĩ tài hoa dùng để vẽ nên bức tranh tố nữThì màu xanh không bằng mắt emMàu hồng không sánh được đôi má thẹn thùng ửng thắmMàu đỏ không mộng bằng màu của đôi môiEm hiển hiệnTrong tình yêu của anhLà dung nhan hoàn mỹ nhứtHẠNH PHÚCEm xỏa tócĐùa mùa xuân gió nhẹAnh đêm vềKhẻ động giấc mơ hoangAi miên man trong tiếng nhạc thơVòng tay ấmCho đông về bớt lạnhNghe rất khẽÔi mùa yêu đang chậmÔi làn hương ngây ngất thoáng quaHương tình yêu vừa nở nụ hoaTình không đợiNghĩa là tình rất mớiAnh không chờ giữa cuộc đời đauEm không ngờ tình đến với nhauNhư hạnh phúc bên bờ khát vọngEm xa lạVà anh xa lạHai cuộc đời chia mấy chờ mongHai cuộc đời hai nhánh của dòng sôngBờ hạnh phúc nay nối về một bến.TÌNH QUÊN (2)Nghe loáng thoáng lời ru của gióChiều dịu dàng sau những cơn mưaTháng năm cũng lam nham mùa gặt dởTa tìm gì sau những cơn mơĐời lang bạt mấy vòng đua định mệnhTới rồi lui như những trò đùaBao ngày tháng trượt dài trên vội vảTa còn gì sau những cuộc vuiĐốt lửa lên tình chưa chịu cháyNhịp đập xa xưa trong trái tim buồnTa còn lại gì khi thời gian đã khépLời thề đong đưa trong cuộc tình quên...VỌNG TÌNHSao rụng chờ bình minh đếnSương còn mấy hạt rơi rơiCơn gió lay lay ngọn nếnTình hồng sót lại chưa vơiVạt trăng khều lơi giấc ngủMộng về phủ kín chăn đơnLá lay gọi hồn mùa cũKèo nài nỗi nhớ xa hơnSợi tình theo mưa vừa rụngBuồn tìm đoạn đứt mang theoKhông gian hốt nhiên đứng sụmBên trời mây lặng trăng treoĐèn vẫn chong đêm đợi sángLời ca da diết chưa ngừngLỡ mai tình nồng đã cạnVấn vương chiếc bóng lưng chừngBên hiên lao xao tiếng láMơ màng dáng ngọc xa xưaThẹn thùng hỏi ai vàng đáNgàn năm tình vẫn như đùaBÀI THƠ VIẾT LẠIbốn mươi năm vẫn nhớ lờicâu thơ mùa cũ một thời dấu yêuhoàng hôn nhuộm nước sông chiềutrên không gió giật cánh diều đã xabốn mươi năm cũng là tanước xuôi, bèo dạt – nguồn xa chưa vềquê hương biền biệt phương trờibâng khuâng một mảnh trăng thề gầy haobốn mươi năm tưởng ngày nàotóc xanh đã bạc lạc vào bến mêbóng mây trôi dạt chiều quêcánh chim viễn xứ bốn bề bơ vơ...BỎRồi ta bỏ kiếp sống nàyBỏ thân ốc mượn bỏ đời trầm luânÁó bay đã khuất tầm nhìnCòn chăng kỷ niệm chút tình hợp tanMỘNGĐêm qua mộng bỗng bàng hoàngThấy em áo mỏng lụa vàng năm xưaThấy buồn em đứng trong mưaMắt nai khóc cuộc tình vừa đổi thayXƯAChiều xưa áo ấy còn bayMà nay trăng khuyết đã thay bóng ngườiChiêm bao nghe vọng tiếng cườiNhớ liu xiu bóng khóc đời buồn tênhSAYRượu sầu mà uống sao quênNgười đâu mà nhớ mà quên hỡi ngườiSay cho suốt một kiếp ngườiCho tan hình bóng áo bay hảo huyềnVÔ ĐỀVầng mây baynhẹ khối hồngBèo trôi theo nướcphiêu bồng phù sinhTrăng tàn khuất nẻo bình minhCánh chim ước hẹn đăng trình ngàn xaBiển dâu mọt kiếp ta bàVẫn nương tục luỵlơ là chân nhưGiấc khuya nghiêng lắngtrầm tưQuay lưngtrễ bước nhiệm từ vô biên!
Chúng tôi tìm bài thơ “Tình Sử 2” tác giả Vô Danh Thị trong Cổ Văn Quan Chỉ Trung Quốc trên mạng mà không ra, theo nhà thơ Chu Vương Miện, đoạn thơ như sau:
Trả lờiXóaQuân tại Tương Giang đầu
Thiếp tại Tương Giang bán
Cùng nhậm thủy Tương Giang
Thiếp chàng cùng khố nạn
Chỉ có bài thơ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ của Lương Ý Nương có lời tương tự:
長 相 思
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
君 在 湘 江 頭
Quân tại Tương giang đầu
我 在 湘 江 尾
Thiếp tại Tương giang vỹ
相 思 不 相 見,
Tương tư bất tương kiến,
同 飲 湘 江 水。
Đồng ẩm Tương giang thuỷ.
Không biết nhà thơ Chu Vương Miện cố tình “cà rỡn” hay không, khi đưa bài thơ chữ Hán “Tình Sử 2” tác giả Vô Danh Thị trong Cổ Văn Quan Chỉ Trung Quốc với câu chữ Việt Hán lẫn lộn đan xen với nhau:
Cùng nhậm thủy Tương Giang
Thiếp chàng cùng khố nạn
CÙNG chữ Hán là ĐỒNG 同 như trong thơ Lương Ý Nương:
Đồng ẩm Tương giang thuỷ.
CHÀNG chữ Hán là QUÂN 君 (chồng, chỉ người con trai) như trong thơ Lương Ý Nương:
Quân tại Tương giang đầu