Nhà thơ Đỗ Trung Quân
TẠ LỖI TRƯỜNG SƠN1.Một ngàn chín trăm bảy mươi lămCác anh từ Bắc vào NamCuộc trường chinh 30 năm dằng dặcCác anh đếnVà nhìn Sài Gòn như thủ đô của rácCủa xì ke, gái điếm, cao bồiCủa tình dục, ăn chơi“Hiện sinh - buồn nôn - phi lý!!!”Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụyCon gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồCác anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộcNgòi bút các anh thay súngBắn điên cuồng vào tủ lạnh, tiviVào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa KỳCác anh hằn học với mọi tiện nghi tư bảnCác anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạnLà thiêu thân ủy mị, yếu hènCác anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chươngMang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!2.Tội nghiệp Sài Gòn quá thểTội nghiệp chiếc cầu Công LýCó anh thợ điện ra đi không vềTội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống MỹLửa khói vỉa hè nám cả những hàng meTội nghiệp những người Sài Gòn đi xaĐi từ tuổi hai mươiNhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốcCó ai hỏi những hàng dương xanhXem đã bao nhiêu người Sài Gòn hóa thân vào sóng nướcTội nghiệp những đêm Sài Gòn đốt đuốcNhững “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống khôngTội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòngÁo chùng đen đẫm máuTội nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báoNhững vị giáo sư trên bục giảng đườngƯu tư nhìn học trò mình nhiễm độcSài Gòn của tôi - của chúng ta.Có tiếng cườiVà tiếng khóc.3.Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xótMột góc phù hoa ngày cũ qua rồiNhững con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiệnNhững gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biểnTìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mìnhCuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hi sinh...4.Và khi ấyThì chính “các anh”Những người nhân danh Hà NộiCác anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bớiChửi đã đờiChửi hả hêChửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mìnhCác anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanhKhi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!Tội nghiệp những bà mẹ già miền BắcNhững bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụtNhững bà mẹ làm ra hạt lúaNhững năm thất mùa phải chống gậy ăn xinNhững bà mẹ tự nhận phần mình tối tămĐể những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạchBây giờNhững đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhânCác anhĐang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chânĐã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấuCũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bôCác anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh tivi, cassette, radio...Bia ôm và gáiCác anh ngông nghênh tuyên ngôn ”khôn và dại”Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”Các anh cũng chạy đứt hơiRượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứSài Gòn 1982 lẽ nào...Lại bắt đầu ghẻ lở?5.Tội nghiệp emTội nghiệp anhTội nghiệp chúng ta những người thành phốNhững ai ngổn ngang quá khứ của mìnhNhững ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật6.Xin ngả nón chào các ngài“Quan tòa trong sạch”Xin các ngài cứ bình thản ăn chơiBình thản đổi thay lốt cũHãy để yên cho hàng me Sài GònHồn nhiên xanh muôn thuởĐể yên cho xương rồng, gai gócChân thật nở hoa.Này đây!Xin đổi chỗ không kì kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưaNơi một góc (chỉ một góc thôi)Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lởBây giờ...Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào “thượng đế”Khi sống hả hê giữa một thiên đườngAi bây giờSẽTạ lỗiVới Trường Sơn?Đỗ Trung Quân(1982)
Ảnh: Những bộ quân phục của người lính VNCH ngay giữa lòng thủ đô Hà Nội hôm nay.
Đã 34 năm trôi qua. Hòa bình cũng dài ngang bằng cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Chưa có cuộc chiến nào ám ảnh một dân tộc cho bằng cuộc chiến tranh này, nó thay đổi hình thái xã hội. Thay đổi số phận con người. Công bố bài thơ viết năm 27 tuổi, bảy năm sau hòa bình (1982). Nay nhìn lại, tôi cũng không hiểu điều gì đã dẫn dắt cho những dòng chữ này. Khi làm xong nghĩa vụ một thanh niên thời hậu chiến, người có lý lịch may mắn không vướng phải chuyện lính tráng dù thế hệ tôi sau “mùa hè đỏ lửa 1972” hầu hết cũng đã “yên vị” khói hương trên bàn thờ gia đình. Còn nhớ những năm của thập niên 80, giáo sư Nguyễn Khắc Viện viết một bài đanh thép trên báo Sài Gòn Giải Phóng “Sen hay bùn” về danh xưng khi nào thì gọi là Thành phố Hồ Chí Minh, khi nào thì gọi là Sài Gòn? Và ông khẳng định cái tốt thì gọi TP Hồ Chí Minh, cái tệ nạn, cái xấu, cái “tồn đọng” thì gọi là Sài Gòn. Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đã đối thoại bằng một bài báo khác (tất nhiên ông không thể đăng bài phản biện ấy trên báo Sài Gòn Giải Phóng như trong một xã hội bình thường), ông nhắc rằng hiện tại sau 10 năm giải phóng, thành phố vẫn còn một tờ báo lớn tiếng nói chính thức của “Đảng bộ và nhân dân thành phố” tờ Sài Gòn Giải Phóng (nó vẫn còn đến tận hôm nay), còn một nhà máy thuốc lá Sài Gòn, còn một đội bóng danh tiếng mang tên Cảng Sài Gòn (nay đã không còn)… Bài thơ này, có lẽ là cái nhìn đau đớn đầu tiên của một người trẻ tuổi vừa từ chiến trường K trở về với bao nhiêu hoài bão sau khi chứng kiến những hy sinh cao đẹp của một thế hệ thanh niên Sài Gòn, những con người thành phố tuổi chỉ mới đôi mươi…
Hai mươi bảy tuổi và một bài thơ dài nhất của đời mình...
Đỗ Trung Quân
*
Nguồn:
https://www.thivien.net/%C4%90%E1%BB%97-Trung-Qu%C3%A2n/T%E1%BA%A1-l%E1%BB%97i-Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-S%C6%A1n/poem-Sj2SsJ4gGoXehQom88qD4A
Hai mươi bảy tuổi và một bài thơ dài nhất của đời mình...
Đỗ Trung Quân
*
Nguồn:
https://www.thivien.net/%C4%90%E1%BB%97-Trung-Qu%C3%A2n/T%E1%BA%A1-l%E1%BB%97i-Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-S%C6%A1n/poem-Sj2SsJ4gGoXehQom88qD4A
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét