CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022

CHÙM THƠ “TRƯỜNG TƯƠNG TƯ” CỦA BẠCH CƯ DỊ – Đỗ Chiêu Đức


TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

       
TƯƠNG TƯ 相思 là NHỚ NHAU, mà đã nói là NHỚ NHAU thì phải là hai người chớ không thể nào là một người được; Nên, Bệnh Tương Tư là bệnh của những người yêu nhau, của những cặp đôi, của những cặp vợ chồng... vì lý do nào đó mà phải xa cách nhau, rồi nhớ thương nhau mà... thành bệnh. Từ ngàn xưa đến nay có biết bao nhiêu lứa đôi phải đau khổ day dứt và nhớ thương nhau thắm thiết vì... hai đứa hai nơi và vì chỉ có một bên có dịp bày tỏ, nên hễ buồn đau sầu khổ vì nhớ người yêu đến nỗi ăn không ngon ngủ không yên, thì đều gọi là BỆNH TƯƠNG TƯ cả; Mặc dù chỉ có "một bên" bày tỏ nỗi lòng mà thôi! Ta hãy cùng đọc lại những vần thơ Tương Tư, Trường Tương Tư... của thời đại hoàng kim của thi ca ngày xưa để xem các "ông bà" lúc đó đã yêu nhau và nhớ nhau như thế nào nhé! Nào, ta hãy bắt đầu bằng những vần thơ Trường Tương Tư của Thi Bá Bạch Cư Dị nhé!
 
1. Bài từ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ 長相思 của Bạch Cư Dị:
 
長相思                 TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
 
汴水流,                  Biện thủy lưu,
泗水流,                  Tứ thủy lưu,
流到瓜州古渡頭。  Lưu đáo Qua Châu cổ độ đầu.
吳山點點愁。          Ngô sơn điểm điểm sầu!
 
思悠悠,                  Tư du du, 
恨悠悠,                  Hận du du,
恨到歸時方始休。  Hận đáo quy thì phương thủy hưu.
月明人倚樓。          Nguyệt minh nhân ỷ lâu!
     白居易                                               Bạch Cư Dị
 
Bạch Cư Dị và bài từ Trường Tương Tư được phổ nhạc
 
* Chú thích:

    - TRƯỜNG TƯƠNG TƯ 長相思 : Đây là Tên của một Từ Khúc, từ điệu lấy từ Nhạc phủ của Nam Triều thời Nam Bắc Triều, với câu trên là TRƯỜNG TƯƠNG TƯ và câu dưới là CỬU LY BIỆT 久離別 thường dùng phổ vào các khúc hát nói lên sự tưởng nhớ của nam nữ đang yêu nhau nhớ nhau.
    - Biện Thủy 汴水 : Tên sông, là một nhánh của con sông Hoài, bắt nguồn từ tỉnh Hà Nam, chảy vào Túc Huyện, Tứ Huyện của tỉnh An Huy rồi đổ vào sông Hoài Hà.
    - Tứ Thủy 泗水 : Cũng là một nhánh của con sông Hoài. Bắt nguồn từ huyện Khúc Phụ của tỉnh Sơn Đông chảy xuôi về Nam qua Từ Châu của tỉnh Giang Tô ngang qua huyện Hoài An rồi cũng đổ vào con sông Hoài Hà.
    - Qua Châu Cổ Độ 瓜洲古渡 : Bến đò cổ ở Qua Châu, thuộc bắc Trường Giang nằm trong Dương Châu của tỉnh Giang Tô.
    - Ngô Sơn 吳山 : Núi Ngô, là ranh giới của nước Ngô thời Chiến Quốc mà thành tên; Ngô Sơn còn chỉ chung các núi non ít ỏi của vùng Giang Nam thuộc Hàng Châu tỉnh Chiết Giang.
    - Du Du 悠悠 : là Dằng dặc, là Đằng đẵng, là day dứt mãi.
    - Hưu  : là Ngưng , nghỉ, là Thôi.
 
* Nghĩa bài từ:
                       
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
     
Nước sông Biện chảy, nước sông Tứ cũng chảy. Chảy mãi cho đến bến đò cổ của xứ Qua Châu để thấy cảnh núi non xinh đẹp của đất Giang nam mà lòng càng thêm sầu muộn (Vì Tô Châu Hàng Châu là nơi nổi tiếng cảnh đẹp người đẹp và thức ăn ngon, mà chàng đang lãng du nơi đó). Cho nên...     
Lòng nhớ thương cứ đằng đẵng mãi mà nỗi sầu hận cũng cứ day dứt mãi cho đến khi nào chàng trở lại thì mới thôi không còn day dứt nữa. Vì lúc đó thì ta sẽ cùng đứng tựa vào nhau mà ngắm trăng trên lầu vắng nầy.
 


* Diễn Nôm:
                  
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
                
Sông Biện chảy,                
Sông Tứ chảy,                 
Chảy đến Qua Châu cổ độ đầu,                 
Núi Ngô chấm phá khiến lòng sầu !
                 
Nhớ mênh mang,                 
Hận mênh mang,                
Hận đến người về hận mới tan,                 
Lầu cao cùng tựa ngắm trăng vàng !
      
Lục bát:
                 
Sông Biện nước chảy xuôi dòng,                 
Sông Tứ nước cũng thuận dòng chảy theo.                
Qua Châu bến đổ đáng yêu,                
Núi Ngô chấm phá gợi nhiều nhớ nhung !
                 
Nhớ ai lòng mãi mông lung,                
Hận ai lòng cũng nấu nung đêm ngày.                
Người về hận mới nguôi ngoai,                 
Tựa nhau lầu vắng ngắm hoài bóng trăng!                                          
                           Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
  

2. Bài thơ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ 長相思 của Bạch Cư Dị:
 
 長相思              TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

九月西風興,    Cửu nguyệt tây phong hứng,
月冷霜華凝。    Nguyệt lãnh sương hoa ngưng.
思君秋夜長,    Tư quân thu dạ trường,
一夜魂九升。    Nhất dạ hồn cửu thăng.
二月東風來,    Nhị nguyệt đông phong lai,
草坼花心開。    Thảo sách hoa tâm khai.
思君春日遲,    Tứ quân xuân nhật trì,
一日腸九回。    Nhất nhật trường cửu hồi.
妾住洛橋北,    Thiếp trú Lạc kiều bắc,
君住洛橋南。    Quân trú Lạc kiều nam.
十五即相識,    Thập ngũ tức tương thức,
今年二十三。    Kim niên nhị thập tam.
有如女蘿草,    Hữu như nữ la thảo,
生在松之側。    Sanh tại tùng chi trắc.
蔓短枝苦高,    Mạn đoản chi khổ cao,
縈迴上不得。    Oanh hồi thướng bất đắc.
人言人有願,    Nhân ngôn nhân hữu nguyện,
願至天必成。    Nguyện chí thiên tất thành.
願作遠方獸,    Nguyện tác viễn phương thú,
步步比肩行。    Bộ bộ tỉ kiên hành.
願作深山木,    Nguyện tác thâm sơn mộc,
枝枝連理生。    Chi chi liên lý sanh.
        白居易                              Bạch Cư Dị
 

* Chú thích:
    - Trường Tương Tư 長相思 : là "Nhớ nhau dai dẳng", đó là tên của một trong 25 khúc hát "Cổ oán tư 古怨思" thuộc Tạp khúc ca từ trong Nhạc Phủ xưa.
    - Hứng  : là Nổi dậy; Tây Phong Hứng 西風興 là gió Tây nổi dậy, là trời trở gió Tây là gió của mùa thu. Ca dao Nam bộ của ta có câu:
                     
Anh về để áo lại đây,               
Để khuya em đắp GIÓ TÂY lạnh lùng.
 
    - Ngưng  : là Đọng lại, ta có từ kép Ngưng đọng.
    - Hồn Cửu Thăng 魂九升 : là Thần hồn lên chín lần; ý chỉ tâm thần dao động không yên, lấy ý ở bài "Quả Phụ Phú 寡婦賦" của Phan Nhạc đời Tây Tấn có câu : Ý hốt hoảng dĩ thuyên việt hề, thần nhất tịch nhi cửu thăng 意忽怳以遷越兮,神一夕而九升. Có nghĩa: Tâm ý luôn thấp thỏm hoảng hốt không yên; Thần hồn trong một ngày đêm dao động lên xuống chín lần". Số 9 là con số lẻ cao nhất thường dùng để chỉ số nhiều thật nhiều.
    - Thảo Sách 草坼 : là những cọng cỏ nẩy mầm vươn ra khỏi mặt đất.
    - Trường Cửu Hồi 腸九回 : HỒI là Hồi Chuyển 回轉 là Trở đi trở lại, là lộn lạo; nên CỬU HỒI TRƯỜNG là chỉ Gan ruột lộn lạo co thắt chín lần; ý chỉ rất đau xót. Ca dao Nam bộ của ta cũng có câu:
                    
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,             
Trông về quê mẹ RUỘT ĐAU CHÍN CHIỀU.
 
    - Lạc Kiều 洛橋 : Chỉ cây cầu Thiên Tân bắt ngang dòng Lạc Thủy của đất Lạc Dương, nơi thường xảy ra các cuộc tiễn đưa người đi kẻ ở như lời thơ của Tống Chi Vấn một thi sĩ nổi tiếng thời Thịnh Đường:
                 
可憐江浦望,  Khả lân giang phố vọng,                 
不見洛橋人。  Bất liến LẠC KIỀU nhân.
      
Có nghĩa:
                     
Thương thay trên bến vời trông,               
Lạc Kiều mất hút cầu không thấy người!
 
    - Nữ La Thảo 女蘿草 : Cỏ Nữ La, là một loại dây leo hay bò quấn quanh cây tùng cây bá; thường dùng để ví với các cô gái đào tơ liễu yếu phải sống nương tựa vào các đấng phu quân mạnh mẽ cao lớn để nương nhờ sự che chở.
    - Mạn Đoản 蔓短 : Mạn là Mạn đà la cũng là một loại dây leo; ĐOẢN là ngắn. Câu nầy ý chỉ không môn đang hộ đối, như dây leo ngắn không thể leo lên cây có cành lá qúa cao vậy.
    - Oanh Hồi 縈迴 : là vòng vo, quấn quanh.
    - Viễn Phương Thú 遠方獸 : Theo sách "Nhĩ Nhã. Thích Địa 爾雅·釋地" thiên thứ 9 có nhắc đến loại "Tỉ Kiên Thú 比肩獸" (Là loại thú kề vai nhau). Tương truyền loại thú nầy, một con gọi là Quyết  có chân trước ngắn như chuột và chân sau dài như chân thỏ, đầu thấp đuôi cao, chuyên tìm thức ăn dưới đất không đi đứng được; còn một con gọi là Cùng Cùng 邛邛 thì chân trước như chân nai, còn chân sau thì như chân thỏ, nên đầu cao đuôi thấp, đi đứng được nhưng không thể tìm thức ăn dưới đất; vì thế hai con thú nầy phải cùng kề vai sát cánh nương tựa nhau để đi đứng và tìm thức ăn, không thể sống tách rời ra được. Sau dùng để chỉ vợ chồng thương yêu gắng bó với như hình với bóng không thểrời xa nhau được.
    - Liên Lý Sanh 連理生 : là Cành nhánh như mọc liền vào nhau giữa hai cây khác nhau; thường dùng để chỉ sự ân ái thương yêu nhau đến tột cùng của tình nghĩa vợ chồng. Theo bài thơ trường thiên "Khổng Tước Đông Nam Phi 孔雀東南飛trong Hán Nhạc phủ có đoạn thơ như sau:
            
 ...兩家求合葬 Lưỡng gia cầu hợp táng,                
合葬華山傍。   Hợp táng Hoa sơn bàng.               
東西植松柏,   Đông tây thực tòng bá,                
左右種梧桐。   Tả hữu chủng ngô đồng.                 
枝枝相覆蓋,   Chi chi tương phúc cái,                
葉葉相交通。   Diệp diệp tương giao thông.
     
Có nghĩa:
                
Hai nhà xin hợp táng chung,                
Hoa Sơn bên núi vợ chồng cùng yên.                
Đông tây tòng bá hai bên,                
Ngô đồng phải trái trồng liền hai nơi.               
Cành cành liền nhánh tốt tươi,               
Lá xanh lá biếc khắp nơi giao hòa.
     
Còn theo Sưu Thần Ký 搜神記 của Cán Bửu đời Đông Tấn thì:
Vào thời Chiến Quốc, xá nhân của Tống Khang Vương là Hàn Bằng, văn hay chữ tốt, có vợ là Hà Thị, một yểu điệu thục nữ. Khang Vương mê sắc, đoạt vợ của Hàn Bằng rồi bắt Hàn Bằng đày đi xây trường thành. Bằng tự sát chết, Hà Thị cũng tự sát chết theo. Người trong làng thương tình chôn hai vợ chồng ở hai bên đường, nhưng chỉ cách có một đêm hai bên đầu mộ đều cùng mọc lên hai cây đại Tân mộc, chỉ mươi ngày sau thì thân cây đã to bằng người ôm, cành nhánh mọc liền vào nhau cả rể cây bên dưới cũng chằng chịt quấn lấy nhau, lại có một đôi uyên ương ngày đêm quấn quít trên cành kêu lên những tiếng bi thương làm xúc động lòng người.
 
* Nghĩa bài thơ:
                               
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
      
Những trận gió tây của tháng chín đã nổi lên, ánh trăng lạnh lẽo và những giọt sương đã ngưng đọng lại. Nhớ đến chàng nên cảm thấy đêm thu như dài thêm ra, mộng hồn ngơ ngẩn trăn trở suốt đêm (cửu thăng). Kịp đến khi gió xuân của tháng hai thổi đến làm cho cỏ nẩy mầm xanh và hoa đều nở đẹp, thì thiếp lại nhớ chàng mà cảm thấy ngày xuân qua sao mà chậm chạp thế, trong một ngày mà ruột đã thắt chín chiều. Thiếp thì ở bên phía bắc của Lạc kiều, còn chàng thì ở phía nam của Lạc Kiều; Mười lăm tuổi thì đã quen biết với chàng, đến hôm nay thiếp cũng đã hai mươi ba tuổi rồi. Thân thiếp như dây Nữ la thảo sống chùm gởi vào cây tùng cây bá, nhưng tùng bá lại qúa cao mà dây leo thì quá ngắn nên không thể uốn quanh mà bò lên cao được. Người đời thường nói là nếu người nào đó có ước nguyện chí thành khi thấu đến trời thì trời sẽ cho tròn ước nguyện. Thiếp cam tâm biến thành con "thú viễn phương" để được cùng chàng kề vai sát cánh trên từng bước chân, và cũng cam tâm làm những loài cây mọc trong núi rừng sâu thẵm mà cành nhánh đều được liền nhau.


* Diễn Nôm:
            
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ 
                               
Gió tây tháng chín hắt hiu,
Sương rơi trăng lạnh cho nhiều nhớ nhung.
Nhớ người đêm tối mông lung,
Một đêm chín lượt chờ mong não nề!
 
       Gió xuân tháng hai thổi về,
       Cỏ cây hoa lá tư bề lao xao.
       Nhớ người xuân cũng qua mau,
       Một ngày mong mõi ruột đau chín chiều.
 
Lạc Dương nam bắc hai chiều,
Thiếp nơi cầu bắc nhớ nhiều cầu nam.
Mười lăm đem dạ yêu chàng,
Hăm ba tình đã nồng nàn lắm thay!
 
       Thiếp như hoa nữ cỏ may,
       Leo quanh tòng bách tháng ngày nương thân.
       Thấp hèn cũng cố uốn quanh,
       Vươn theo cho kịp lá cành trên cao.
 
Ý thành lòng những ước ao.
Thành tâm khấn nguyện trời nào phụ ta.
Có làm muông thú nơi xa,
Cũng nguyền sánh bước lọ là kề vai!
 
      Nguyện như cây núi vươn dài,
     Nối liền cành nhánh thương hoài ngàn năm!                            
                                  Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
 
Hẹn bài viết tới:
                       
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ của Thi Tiên LÝ BẠCH
 
                                                                                  杜紹德
                                                                               Đỗ Chiêu Đức
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét