CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Bảy, 26 tháng 2, 2022

SÔNG THẠCH HÃN, NGUỒN GỐC ĐỊA DANH / Yến Thọ - Trương Thị Thúy Kiều

 Nguồn:
https://tapchicuaviet.com.vn/nguoi-dat-que-huong/song-thach-han-nguon-goc-dia-danh-8202.html


Sông Thạch Hãn là con sông lớn nhất của tỉnh Quảng Trị, có chiều dài tới 155km, có lưu lượng dòng chảy trung bình năm khoảng 130m/s, có nhiều phụ lưu (37 phụ lưu) với lưu vực rộng lớn tới 2.600km2, chiếm tới hơn 50% diện tích của tỉnh 1.
 
Xét trên hình thế địa cuộc của tiểu vùng phía nam (thuộc huyện Triệu Phong - xưa là huyện Lợi Điều/Đăng Xương/Võ Xương/Thuận Xương và huyện Hải Lăng - xưa là huyện An Nhân) nói riêng và toàn địa hạt nói chung, sông Thạch Hãn được coi là long mạch chủ đi kèm với Non Mai/Mai Lĩnh sơn/núi Mai Lĩnh để trở thành cặp đôi sông núi biểu trưng văn hoá Quảng Trị: Non Mai - Sông Hãn.
 
Sông Thạch Hãn trên bản đồ

Sách “Đại Nam nhất thống chí” của triều Nguyễn mô tả: Sông Thạch Hãn “ở hai huyện Ðăng Xương và Hải Lăng, phát nguyên từ trong sách Man, chảy về tây bắc hơn 40 dặm đến bãi Ái Tử, lại chảy chừng 33 dặm, thì có nước nguồn Viên Kiệu chảy vào, rồi chảy sang phía đông nam chừng 10 dặm, qua cửa Ngưu Cước, tục gọi là nguồn Trang, lại 17 dặm qua bến Lương Mai, lại 14 dặm qua bến Trinh Thạch, lại 2 dặm thì có dòng khe phía nam qua phường Trà Trì mà chảy vào, lại chảy 17 dặm qua khe Trái, lại chảy 15 dặm qua phía đông chợ Như Lệ, lại chảy 16 dặm qua xã Thạch Hãn, ở đây có một thân đá nhô lên mặt nước, nằm ngang từ tả sang hữu, cốt đá chập chùng, lại chảy 10 dặm qua bến đường quan ở phía tây thành đạo Quảng Trị, lại ba dặm qua ngã ba Cổ Thành, đến địa phận 2 xã An Tiêm và Xuân An thì chia làm 2 nhánh: một nhánh chảy về phía đông nam vào sông Vĩnh Ðịnh; một nhánh chảy về phía đông bắc 11 dặm qua ngã ba Vĩnh Phúc tục gọi bến Quyết, lại chảy 9 dặm qua ngã ba Ðại Ðộ, tục gọi ngã ba sông Tương, lại 7 dặm qua ngã ba Giáo Liêm, lại 10 dặm mà ra cửa biển Việt Yên” 2.
 
Sông Thạch Hãn vốn có tên dân gian là Nguồn Hàn. Sách “Phủ biên tạp lục” gọi nguồn này là nguồn Viên Kiều (hay Viên Kiệu), nguồn sông Hiếu là nguồn Cảo Cảo. Sông Thạch Hãn được hợp lưu bởi hai nguồn Viên Kiều và Cảo Cảo: “Huyện Võ Xương có Cửa Việt, sông từ hai nguồn Viên Kiều và Cảo Cảo đổ về” 3. Đầu nguồn Viên Kiều thuộc huyện Hải Lăng, nằm trong các trang, sách của châu Thuận Bình. Đầu nguồn Cảo Cảo thuộc huyện Võ Xương, nằm trong các trang, sách của châu Sa Bôi. Hai châu này ngày nay thuộc huỵện Đakrông, Hướng Hoá.
 
Sông Thạch Hãn là sự nối dài của sông Đakrông, hay nói chính xác hơn là bắt nguồn từ sông Đakrông. Dòng dài lưu vực cũng chính là long mạch của Thạch Hãn đi qua về cơ bản là nằm trong địa hạt và cũng là không gian văn hoá của người Việt từ vùng Ba Lòng phía thượng nguồn về đến Cửa Việt phía hạ nguồn để đổ vào biển Đông. Sông Đakrông chảy theo hướng chính là tây bắc; sông Thạch Hãn chảy theo hướng chính là đông nam.
 
Sông Ðakrông bắt nguồn từ vùng động A Pong, Côcava thuộc vùng thượng La Bút ở phía đông Trường Sơn gần biên giới Việt - Lào, dài 85km. Trên con đường đổ về đồng bằng, sông chảy theo hướng đông nam - tây bắc len lỏi uốn mình giữa các sườn núi cao, nhận thêm nhiều khe suối đổ đến và khi tới gần Khe Sanh thì tiếp nhận một phụ lưu từ phía bắc chảy xuống, đó là sông Rào Quán, phát xuất từ động Sá Mùi. Tới đây, do đụng phải chân đèo Ai Lao (còn gọi là đèo Lao Bảo) nên dòng sông chuyển hướng chảy về phía đông, mở rộng dòng chảy thành con sông lớn, chạy song song với Quốc lộ 9, dài chừng 10km cho đến Ca Lu, sau khi tiếp nhận nguồn Khe Soi ở phía tả ngạn. Nơi hợp lưu là thung lũng phường Mai Lĩnh (cũng chính là phường Mai Hoa). Tại đây, sông đụng phải đèo Sên (col des Sangsues) nên phải đổi hướng đông nam và chính thức mang tên sông Thạch Hãn. Sự phân định này từ trong các tài liệu và bản đồ xưa nay chưa được cụ thể và rõ ràng. Theo bản đồ địa lý hành chính của tỉnh Quảng Trị hiện nay thì đoạn sông chảy song song với đường Quốc lộ 9 cũng được gọi là sông Ba Lòng. Tuy nhiên, dân địa phương lại gọi là sông Đakrông.
 
Trên thực tế từ xưa nay, phía thượng nguồn, trong khu vực cư trú của đồng bào các tộc người Vân Kiều, Pa Cô, Pa Hy thì sông mang tên là Ðakrông; từ vùng thung lũng Ba Lòng xuôi về biển, sông mang tên là Thạch Hãn.
 
Tên sông Đakrông trong ngôn ngữ Môn - Khơme có nghĩa là dòng nước trong (Đak: sông, dòng nước - Rông: trong xanh). Huyền tích về tên của dòng sông kể rằng: Ngày xưa ở một ngọn núi nọ, dưới chân núi có hai vợ chồng nông dân sinh hạ được mười người con trai và trên chóp núi cao mười cô con gái gọi cặp vợ chồng Diều hâu là bố mẹ. Cũng như sáu người anh em ở đầu bản, sáu cô chị trên núi luôn cậy mình là lớn, chỉ ham vui chơi và bắt bốn em của mình phải làm tất thảy mọi công việc nặng nhọc trong nhà. Thấm thoát, mười người con trai ở dưới bản đã đến tuổi lấy vợ. Họ kéo nhau lên núi xin hỏi mười cô gái. Hay tin, sáu cô chị vội vàng trang điểm nên được sáu người anh kén chọn. Bốn cô theo thứ tự lấy bốn người em trai. Người con trai út lấy cô con gái út có tên là Ðakrông. Sau khi về bản họ vẫn chung sống với nhau trong một nhà. Bốn cô em ngày càng xinh đẹp khiến cho sáu người anh mê mẩn và nảy ra ý muốn chiếm đoạt làm vợ. Không chịu được nổi khổ chia lìa, ba vợ chồng người em bỏ xứ ra đi. Riêng vợ chồng Ðakrông vì quá nặng tình với nương rẫy và bản làng quê hương nên phải ở lại. Từ đây bắt đầu một chuổi ngày khổ nhục, xót thương của đôi vợ chồng trẻ trước tâm địa xấu xa, bạo tàn của ông anh cả, sau khi sáu cô chị bị bố mẹ bắt về núi và năm người em trai đã bị hắn giết hại. Thế nhưng tình thương yêu nồng cháy, thủy chung cộng với lòng nhân hậu của Giàng Phăng tơ rô đã giúp họ vượt qua và chiến thắng tất cả. Bất lực, tức tối tên ác đuổi theo quyết giết chết cho bằng được đôi vợ chồng. Một dòng nước lớn đột nhiên xuất hiện đã kịp thời ngăn bước hắn. Hắn chạy đến đâu dòng nước dài ra đến đấy cho tới lúc hắn mệt nhoài kiệt sức và ngã xuống. Tên ác tắt thở, vợ chồng Ðakrông đưa nhau về bản, sống với nhau trong niềm hạnh phúc chứa chan, yêu nhau bằng một mối tình trong trắng không dứt như dòng nước sau khi họ đã dừng lại vẫn tiếp tục chảy theo chân núi, trong veo, không ngừng, mãi mãi bảo vệ cho cuộc sống của họ được yên lành. Dòng nước, dòng sông chảy qua các bản làng Tà Ôi, Vân Kiều và muôn đời giữ đẹp cuộc sống và tình yêu của con người ấy. Từ đó, nhân dân đã lấy tên hai vợ chồng để đặt tên cho dòng sông là sông Ðakrông.
 
Có thể nói rằng, với truyền thuyết này, sông Ðakrông không chỉ là một bức tranh sinh động về cuộc sống, một khát vọng nồng cháy về đạo đức và công lý nó còn là một bài thơ, một tiếng hát về con người, về đất nước quê hương.
 
Các nhà địa lý xưa coi sông Thạch Hãn là hệ sông riêng tách khỏi sông Đakrông. Sách “Đồng Khánh địa dư chí” chép về sông Đakrông như sau: “Một dòng sông nhánh bắt nguồn từ động Cha Lãng chảy về phía đông, chuyển về phía nam đến địa phận tổng Viên Kiều, lại chuyển về phía đông chảy qua giang phận tuần Chân Trâu (Ngưu Cước) ở núi Ðộng Phụ, xuôi xuống đổ vào sông Thạch Hãn” 4.
 
Sông Thạch Hãn trong nhiều tài liệu về sau này thường được nhắc đến bởi tên là sông Quảng Trị. Đoạn đi qua thung lũng Ba Lòng, sông mang tên là sông Ba Lòng. Từ thị xã Quảng Trị về xuôi thường gọi là sông Thạch Hãn.
 
Tên xưa nhất của sông Thạch Hãn là Kraung Trapauk. Một tài liệu ghi nhận được từ bia ký Chămpa ở ngôi đền tháp Hà Trung có nhắc đến tên một con sông lớn trong vùng là sông Kraung Trapauk. Trụ bia Hà Trung đã được học giả người Pháp là ông Hubert và học giả người Ấn Độ là ông Majumda dịch và xác nhận nội dung đề cập đến việc xây ngôi đền có tên là Indrakantecvara cùng những thông tin đáng chú ý: Ngôi đền thờ thần Siva (thần tàn phá) dưới dạng một linga có mặt người mang tên Indrakantesvara. Đền thờ được khánh thành ngày 21 cai tra năm 838 saka, có nghĩa là năm 918 sau công nguyên, dưới thời trị vì của đức vua Indravacman, con trai của vua Bhadravacman - giai đoạn cuối của vương triều Indrapura. Ngôi đền được xây dựng bởi sự cúng dường của của hoàng hậu Tribhuvanadevi, là goá phụ của Simhavacman. Nội dung tấm bia cũng nói đến một thành phố Chăm có tên là Navap mà trung tâm là làng Hà Trung tồn tại trong các thế kỷ IX - X, cách ngày nay hơn 1000 năm. Có một con sông lớn là Kraung Trapauk mà theo Hubert thì có lẽ đó là sông lớn Quảng Trị. Vào thời đó, đất đai được phân loại là đất mặn, ruộng sâu, có trồng lúa nước và đất khô trồng lúa vãi 5. Điều này không chỉ cho thấy có nhiều cứ liệu để có thể khẳng định trong các thế kỷ trước XI, vùng Quảng Trị là một mandala - tiểu quốc quan trọng trong vùng cực bắc vương quốc Chămpa mà còn có thể thấy rằng con sông có tên Kraung Trapauk chính là sông Thạch Hãn.
 
Con sông trong quan niệm của Ấn Ðộ giáo (tôn giáo chủ yếu của v­ương quyền Chămpa) là sông thiêng, biểu t­ượng của nữ thần Ganga. Một ngọn núi cao nào đó gần con sông đ­ược coi là biểu tượng của Ðại sơn thần và đây cũng là thần Siva. Theo đó, một tiểu quốc của Chămpa (mandala) th­ường tồn tại dựa trên mô hình lấy con sông lớn ở khu vực đó làm trục chính: phía thư­ợng nguồn là thánh địa (núi thiêng), nơi được dựng lên các đền tháp thờ thần/phật - trung tâm tôn giáo; vùng hạ lưu là nơi xây dựng thành lũy, là chốn thị thành - trung tâm chính trị, văn hóa (thành phố thiêng); cửa biển là cảng thị - trung tâm kinh tế, nơi giao lưu trao đổi với thế giới bên ngoài.
 
Nhìn lại không gian vùng Quảng Trị theo hệ quy chiếu sông Kraung Trapauk - Thạch Hãn thì thánh địa Trương Xá (cùng với hệ đền tháp Lâm Lang, Định Xá, Đông Hà, Kim Đâu) trên sông Hiếu và thánh địa Dương Lệ (cùng với hệ đền tháp Thạch Hàn, Nhan Biều, Đa Nghi, Trà Liên, Quảng Điền, Phúc Lộc, Dương Lệ, Cao Hy...) trên sông Thạch Hãn là trục quy hoạch chính; trong đó Dương Lệ là trung tâm tôn giáo của toàn vùng châu Ô trở thành một chỉnh thể dàn đều trên trục quy hoạch Hiếu - Thạch Hãn 6. Toàn bộ không gian này, thành Thuận Châu cùng với cảng biển Cửa Việt, cảng sông Mai Xá ở phía bắc, Phó Hội ở phía nam là các trung tâm về chính trị, kinh tế hoàn chỉnh cho một mô hình của một mandala ở Quảng Trị - tiểu quốc hùng mạnh trong khoảng thời gian trước thế kỷ XI, nhất là giai đoạn vương triều Indrapura.
 
Trước khi có tên chính thức là Thạch Hãn, từ thế kỷ XV - XVI, con sông này được gọi là sông Cái với hàm nghĩa để chỉ con sông lớn nhất của toàn vùng Quảng Trị. Trong một đoạn mô tả về chợ Thuận, sách “Ô châu cận lục chép”: “Chợ Thuận. Ở ranh giới hai huyện Hải Lăng và Vũ Xương. Từ sông Cái ở mặt tây nam, một nhánh sông con đổ về, trên nhánh sông này có một nhịp cầu dài vắt ngang, phía nam cầu là lều quán bày la liệt” 7.  Sông Cái ở đây chính là sông Thạch Hãn, còn nhánh sông con chính là Hói Thuận.
 
Sông Thạch Hãn cũng có tên là sông Ái Tử. Sự kiện nghĩa quân Nguyễn Suý và Đặng Dung nhà Hậu Trần cho quân phục kích đánh quân Trương Phụ vào tháng 9-1413 ở sông Ái Tử (Kênh Thái Dà) chép ở “Đại Việt sử ký toàn thư” 8 chính là trên sông này.
 
Tên Thạch Hãn xuất hiện đầu tiên trong thư tịch cổ ở “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (1776): “Đầu nguồn sông Thạch Hãn huyện Hải Lăng, từ phường Tân An xuống đến ngã ba Quán một ngày” 9. Sông mang tên Thạch Hãn vì trên hành trình từ thượng nguồn xuôi về phía biển sông chảy qua địa phận làng Thạch Hãn (nay thuộc phường II, thị xã Quảng Trị) nên mang theo tên làng này.
 
Tên sông gắn bó mật thiết với tên làng và quá trình thay đổi tên làng Thạch Hãn. Làng Thạch Hãn nằm ở bờ hữu ngạn - vùng tiếp giáp giữa vùng đồi trung du với đồng bằng - nơi có đường Thiên lý ngang qua. Ðây là nơi gần rừng, xa biển, kề cận với đồng bằng, hội đủ các điều kiện địa lý có tính đắc địa nhất để trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của toàn vùng Quảng Trị đúng như lời nhận xét của Minh Mạng là xem khắp trong địa hạt “không có chỗ nào có hình thế sông núi tiện lợi” hơn 10. Chính vì thế, Thạch Hãn đã được Gia Long chọn để đặt lỵ sở Quảng Trị từ năm 1809 và cũng từ đó cho đến trước năm 1989, khi lỵ sở Quảng Trị chuyển ra Đông Hà thì Thạch Hãn/thị xã Quảng Trị luôn là đất trung đô.
 
Trên địa phận làng Thạch Hãn (phía trên cầu xe lửa) ven bờ sông xưa nay có một triền đá nhô ra giữa dòng. Sách “Hoàng Việt Nhất thống dư địa chí” (1806) mô tả: “Từ bến trước công đường (tức Ái Tử), đi thuyền theo đường sông... theo hướng tây nam đi lên 2.200 tầm, phía bắc là đất phù sa và đất khô, phía nam là dân cư và chợ Thạch Hãn, chợ đông vào buổi sáng, quán xá thưa thớt, khách đi đường có thể nghỉ lại, đến kho cũ Thạch Hãn. Ở đây có dãy đá nằm ngang sông nổi lên mặt nước, chỉ chừa lại một lỗ hổng nhưng thuyền bè có thể qua lại được, bị dãy đá cản nên chỗ này nước chảy rất xiết, đến mùa thu đông mưa lụt, nước đầy lút mất đá, thuyền đi không biết đâm phải có khi không còn” 11.
 
Có lẽ vì thế nên làng mới mang tên là Thạch Hãn. Tên Thạch Hãn chắc chắn ra đời trong khoảng thế kỷ XVII - XVIII.
 
Làng Thạch Hãn được hình thành từ nửa cuối thế kỷ XV với tên là làng Thạch Hàn (石韓). Chữ HÀN () của làng Thạch Hàn được chép trong “Ô châu cận lục” hàm nghĩa là tên nước, tên họ (như Hàn Quốc, Hàn Tín) chứ không phải chữ Hàn/Hãn () mang nghĩa mồ hôi.
 
Trong dân gian, 2 chữ Thạch Hàn được diễn Nôm là Đá Hàn. Tên làng Thạch Hàn cũng được gọi là làng Đá Hàn. Ngày nay, địa danh này vẫn còn lưu ảnh ở thị xã Quảng Trị qua nhà thờ Thiên Chúa mang tên Đá Hàn. Vì thế, tên sông trong dân gian vẫn gọi là sông Đá Hàn. Tên Nguồn Hàn là theo chữ Hàn () này và từ đó mà ra. Nhưng tên sông Đá Hàn có khi được hiểu là do nước trong và lạnh, nhưng có khi lại được hiểu theo nghĩa “thành giếng bằng đá”. Cụm từ “thành giếng bằng đá” có lẽ là việc diễn Nôm từ nghĩa Hán tự vừa mang cả chữ Hàn  (lạnh) lại vừa mang cả chữ  (bảo vệ).
 
Dân gian có cái lý của dân gian là vậy! Còn các văn nghệ sĩ thời nay lại luận suy về Thạch Hãn theo một nghĩa khác. Nhạc sĩ Xuân Vũ trong một sáng tác được coi là khá thành công về giai điệu, tiết tấu, thể hiện được cái hồn Quảng Trị trong dòng nhạc hiện đại và từng đạt giải thưởng âm nhạc của Hội VHNT đã hồn nhiên diễn nghĩa 2 từ Thạch Hãn đầy cảm tính như tựa đề ca khúc là “Mồ hôi đᔓAnh ôm trong mình khối đá còn rêu xanh, từ đầu nguồn Rào Quán Đakrông, âm thầm xuôi, xuôi về nơi em cuối dòng Thạch Hãn... Có từ nơi anh nồng nàn thầm lặng, đá ơi sâu nặng mấy ngàn năm, kiên trinh như lòng người Quảng Trị, vất vả cam go đá đổ mồ hôi, đá đổ mồ hôi. Thạch Hãn, Thạch Hãn ơi! Phía ấy hướng chân trời Cửa việt, có loài hoa nở ra từ cát bạc, có cửa sông mặn muối đại dương và dòng sông mặn mồ hôi của đá”.   
 
Theo nghĩa chiết tự Hán - Việt, Thạch Hãn không phải là “mồ hôi đá” như nhiều người vẫn nghĩ, mà là từ để hàm chỉ con sông có nhiều ghềnh đá nổi lên dọc hai bên bờ ngăn cản dòng chảy. Chữ THẠCH () nghĩa Hán là đá, chữ HÃN () nghĩa Hán là mạnh tợn, hung tợn, ương bướng, cản trở; tự dụng gọi là “hãn nhiên bất cố” lại có nghĩa là bảo vệ, gìn giữ. Bởi thế nên trên hành trình từ thượng nguồn về xuôi, dọc hai bên bờ có nhiều tên làng mang nghĩa của đá, như: Trinh Thạch, Đá Nằm/Na Nẫm, Đá Nổi, Thạch Xá, Đá Đứng, Thạch Hãn, Lập Thạch.
 
Tất cả các văn tự viết bằng chữ Hán có liên quan đến tên sông Thạch Hãn của các làng trong vùng đều viết chữ Hãn () theo nghĩa là ương bướng, cản trở chứ không viết chữ Hãn () theo nghĩa mồ hôi.
 
Sách “Đồng Khánh địa dư chí lược” duy danh định nghĩa về sông Thạch Hãn rằng: “Một dòng sông lớn từ phường Mai Lĩnh ở thượng nguồn chảy xuống về phía bắc đến địa phận xã Thạch Hãn, rải rác từng đoạn có những ghềnh đá chắn ngang dòng, cho nên gọi là Hãn Giang” 12.
 
Các nhà địa chí triều Nguyễn luận về sông Thạch Hãn rằng: “Xét: Sông này nguồn rất xa, nước trong và ngọt, ngạn ngữ có câu rằng: Bất vi xạ não, diệc thị trầm đàn; bất vi quỳnh hương diệc thị cam lễ. (Nghĩa là: Chẳng phải xạ hương, long não thì cũng trầm hương, đàn hương; chẳng phải quỳnh tương thì cũng cam lễ). Câu ấy cực tả phẩm chất của nước” 13. Sách “Nhất thống dư địa chí” thời Gia Long ca ngợi sự trong và ngọt của nước sông Thạch Hãn bằng câu:
 
Chẳng thơm cũng vốn bạch đàn
Chẳng trong vốn nước sông Hàn (Hãn) chảy ra” 14.
 
Trong dân gian vùng Thạch Hãn lại lưu truyền câu ca này dưới dạng biến thể:
 
Chẳng thơm cũng thể hương đàn
Không trong cũng nước nguồn Hàn chảy ra”.
 
Chính vì thế, “bản triều Minh Mệnh thứ 17 đúc cửu đỉnh, khắc tượng vào Thuần Ðỉnh; năm Thiệu Trị thứ 2, xa giá bắc tuần qua sông này có thơ đề vịnh; năm Tự Ðức thứ 3 liệt vào điển thờ” 15. Khi cho khắc hình Thạch Hãn giang trên Thuần đỉnh, hình ảnh được thể hiện là một dòng sông với những bờ đá lởm chởm ngang bướng cản dòng.
 
Với ý nghĩa chiết tự và từ trên thực tế, Thạch Hãn giang nên hiểu là một con sông hung tợn, có nhiều đá cản trở, gây nhiều khó khăn cho việc đi lại của thuyền bè.
 
Phong cảnh đôi bờ Thạch Hãn hữu tình và dòng nước Thạch Hãn trong xanh đã trở thành đề tài cho nhiều văn sĩ ngày trước để tâm đến.
 
Nhà thơ Nguyễn Khuyến nhân đi qua một chiều Thạch Hãn đã tức cảnh:
 
“Thạch Hãn giang lưu nhất trạo hoành
Thạch hà yểm ái viễn sơn minh
Tây phong hà xứ xuy trần khởi
Bất tự niên tiền triệt để thanh” 16.
 
(Thạch Hãn ngang dòng chèo một mái
Ráng chiều lấp loáng rặng núi xa
Gió tây đâu cuốn bụi dồn
Nước trong thấu đáy nay còn nữa đâu).
 
Nhà thơ Tương An cũng đã viết:
 
“Danh cao lạn xạ Kim Lung tửu
Sắc tối thanh trừng Thạch Hãn than”.
 
(Chén rượu Kim Lung hương ngát đậm
Bãi sông Thạch Hãn nước trong veo).
 
Như vậy, sông Thạch Hãn có nguồn gốc địa danh từ tên làng Thạch Hãn. Tên Thạch Hãn xuất hiện từ thế kỷ XVI - XVII và được các nhà Nho diễn nghĩa Hán tự từ ghồ đá cản dòng trên sông, đoạn đi qua làng Thạch Hãn. Trước đó, khi làng Thạch Hãn còn mang tên là Thạch Hàn/Đá Hàn thì sông được gọi là sông Đá Hàn. Vì thế, dân gian gọi là Nguồn Hàn.
 
Sông Hãn cường ngạnh, kiên trinh, không chịu phục tùng tự nhiên hay chính nó cũng đã tạo nên tính cách của con người Quảng Trị (?!).
 
Yến Thọ - Trương Thị Thúy Kiều
 
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 210 tháng 03/2012
 
______________
 
1. Sở Khoa học - CN & MT Quảng Trị. Địa chí Quảng Trị. Bản thảo. Quảng Trị, 1996, tr. 50.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn. Ðại Nam nhất thống chí. T1. Nxb Thuận Hóa, 1992, tr. 147 - 148.
3. Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 97 - 98.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn. Ðồng Khánh địa dư chí. Sđd, tr. 1397.
5. L. Cadière. Bãi biển Cửa Tùng. Bulletin des amis du vieux Hue. Những người bạn cố đô Huế. B.A.V.H tập VIII, năm 1921. Bản dịch của Phan Xương. Nxb Thuận Hoá, Huế. 2001, tr. 326.
6. Xem thêm: Lê Đức Thọ. Về các loại hình văn hóa Chămpa ở Quảng Trị. T/c Văn hóa nghệ thuật. Viện Nghiên cứu VHNT - Bộ VHTT, số 11.1995.
7. Dương Văn An. Ô châu cận lục. Sđd, tr. 91.
8. Ðại Việt sử ký toàn thư, tập 1. Bản dịch của Viện Sử học. Nxb Văn hoá Thông tin. 2004, tr. 788.
9. Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Sđd, tr. 109.
10. Quốc sử quán triều Nguyễn. Ðaị Nam thực lục chính biên, tập XI. Nxb Sử học. Hà Nội, 1962, tr. 250.
11. Lê Quang Định. Hoàng Việt nhất thống dư địa chí. Phan Đăng dịch và chú giải. Nxb Thuận Hoá - Trung tâm ngôn ngữ đông tây.  Huế, 2003, tr. 350 - 351.
12. Quốc sử quán triều Nguyễn. Ðồng Khánh địa dư chí lược. Sđd, tr. 1388.
13. Quốc sử quán triều Nguyễn. Ðại Nam nhất thống chí. T1. Sđd, tr. 147.
14. Lê Quang Định. Nhất thống dư địa chí. Phan Đăng dịch và chú giải. Nxb Thuận Hoá, Huế, 2005, tr. 111.
15. Quốc sử quán triều Nguyễn. Ðại Nam nhất thống chí. Sđd, tr. 148.
16. Nguyễn Khuyến. Thạch Hãn giang. Thơ văn Nguyễn Khuyến. Nxb Văn học. Hà Nội, 1971.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét