CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI NHÂM DẦN 2022 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 15 tháng 12, 2025

TÔI CÒN ĐÂY THƠ CÒN CHÚT XÍU – Thơ Trần Vấn Lệ


   

Ngày hôm qua qua... là Ngày Xưa!
Một hôm thôi! Hỏi, có ai ngờ?
Thời gian chớp mắt như bừng tỉnh
Giấc ngủ hồi nào.  Một buổi trưa?
 
Hàng cau vẫn xanh trong vườn mình
Tôi đi tìm Ngoại thấy mông mênh...
Này cam, này quýt, này chanh, ổi
... mà Ngoại đâu rồi?  Vườn vắng tênh!
 
Ngoại của tôi kia:  Một góc vườn
Mộ Ngoại cài bia thấy quá thương...
Má tôi nói Ngoại già trăm tuổi,
Ngoại bệnh.  Rồi thôi.  Ngoại chẳng còn...
 
Tôi nói: Con còn nghe tiếng Ngoại
Trưa nào, nằm võng, Ngoại ru em...
Thằng em tôi nhỏ nằm bên Ngoại
Cái mặt thằng em mắt nhắm nghiền...
 
Má nói:  Con giờ, con chẳng biết
Em con hết nhỏ, lớn rồi nha!
Nó như con vậy, hai thằng Lính
đến Má đây rồi, cũng sẽ xa...
 
*
Má nói tôi nghe.  Rơi nước mắt
không ngờ quá khứ cứ như mơ...
Ba năm tôi Mỹ, thư em viết:
"Má mất rồi anh, một nấm mồ!"
 
Tôi khóc?  Không mà!  Tôi chẳng khóc
Trời ơi là Má, Ngoại... không còn!
Hôm qua, mới đó mà xưa quá,
Tôi nhìn trong gương tôi hoàng hôn...
 
Mới có hôm qua... mà quá khứ!
Bao nhiêu núm ruột hóa nên mồ...
Bia mờ nét chữ ai tô vẽ
Không lẽ bây giờ một chút thơ?
 
                             Trần Vấn Lệ

Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2025

HỌC GIẢ TRẦN TRỌNG KIM, NGƯỜI YÊU NƯỚC THÀNH TÂM - Nhã Nam

 

Trần Trọng Kim được đánh giá là một trong những học giả uyên thâm nhất cả về tân học lẫn cựu học, là người tận tụy và có nhiều đóng góp to lớn cho ngành giáo dục và nền văn hóa Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20. Ông là người tiên phong cho một số công trình biên khảo có giá trị lâu dài thuộc nhiều lĩnh vực học thuật khác nhau.
Theo soạn giả Trần Văn Chánh, “Trần Trọng Kim là một người yêu nước thành tâm, một nhà sử học chân chính, trung thực, một người cầm bút có nhân cách, một học giả xuất sắc…”

GIÓ ĐƯA CÂY CẢI VỀ TRỜI – Trang “Cội nguồn lịch sử và văn hoá”



“Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu đời đắng cay”
 
Câu ca dao phổ biến này gắn liền với câu chuyện về bà Phi Yến, thứ phi của Nguyễn Ánh, và người con trai là Hoàng tử Cải.
 
Truyền thuyết này không được ghi chép chính thức trong sử sách nhà Nguyễn (như Đại Nam Thực Lục), nhưng lại có sức ảnh hưởng rất lớn trong dân gian, được lưu truyền một câu chuyện bi thương về gia đình Nguyễn Ánh.

NHÀ VIẾT TRUYỆN KIẾM HIỆP KIM DUNG PHẢN BIỆN NHÀ PHÊ BÌNH DIỆP HỒNG SINH – Nguyễn Long



Đôi lời mở đầu :

Hầu hết độc giả Việt Nam ta đều biết đến Kim Dung qua các tác phẩm võ hiệp, cùng vài đầu báo về sự nghiệp và đời sống của cụ. Nhưng ít ai biết được rằng cụ Kim tuy là nhà văn trông có vẻ điềm đạm, nhưng thự sự là một người có phong cách và rất chiến, có vô số chiến tích khóa mồm nhiều lão văn sĩ từ mõm đến pro... Những điều này bên Trung Quốc thì nhiều người biết, nhưng ở Việt Nam thì khá hiếm người rõ chuyện, nên mình có dự định chia sẽ nhiều hơn về vị tác giả đại tìa này, một phần vì thông tin của cụ tại Việt Nam rất ít, một phần vị cụ thực sự là một người có phong cách thú vị không khác gì Nguyễn Tuân của Việt Nam ta, ai có hứng thú thì đọc cho biết, không thì đừng nói lời cay đắng nhá...
---

ĐỌC "THEO MỘNG TA VỀ” THƠ VŨ ĐỨC TÔ CHÂU - Châu Thạch


    


THEO MỘNG TA VỀ
 
Ta thấy ta từ Sông Núi cũ
Trôi như con suối biệt xa nguồn
Rơi như chiếc lá không về cội
Chạm tới vô biên những nỗi buồn!
 
Trôi đ! Như thể chim lìa tổ
Bỏ lại máu, xương bọc giống nòi
Bỏ cả tình quê yêu dấu mãi
Búc ruột mà đi… hỡi Đất Trời!
 
Ta đi như trốn ta vào núi
Thắp lửa rừng xanh tóc bạc rồi
Đốt than nửa gánh ta vào chợ
Nửa gánh “Hoàng hoa” sưởi mộng đời
 
Ta đi! như bóng ma lìa xứ
Lẫn khuất mười năm bóng dại khờ
“Dâu biển” tang thương sông núi hởi!
Khúc tàn chinh lệ hóa thành thơ
 
Rồi mai! Gửi xác bên trời vắng
Đất lạ hồn linh cũng dật dờ
“Theo mộng ta về” Sông Núi cũ
Quê mẹ xanh rờn những giấc mơ.
  
                        Long Khánh 1994
                         Vũ Đức Tô châu
  

Thứ Tư, 10 tháng 12, 2025

BẢO NINH, NGƯỜI LÀM LỄ BỎ MẢ CHO GIAI ĐOẠN THƠ VĂN MINH HỌA - Đỗ Trường



Cuộc sống này, quả thật còn có nhiều điều không thể hiểu. Tôi chỉ là người viết văn tép riu, vui là chính, như lời nhà thơ Trần Nhương. Ấy thế mà, tôi cảm giác, văn thơ như có một sợi dây vô hình nào đó gắn bết lại lại với nhau. Khi viết Nguyễn Trọng Tạo, tôi lại nghĩ đến nhà thơ Hoàng Cát, Lưu Quang Vũ. Lúc viết về Trần Mạnh Hảo, cái hào sảng, khí phách con người cũng như thơ ca Bùi Minh Quốc lại hiện về. Viết xong Đỗ Hoàng, thế quái nào tâm trí còn đọng lại bác Bảo Ninh. Giờ này đang viết về Bảo Ninh, người lính chiến miền Bắc, lại thấy ông em họ, lính thám kích miền Nam, chết sau mấy năm trở về, từ nhà tù Thanh Hóa, ngồi lù lù bên cạnh…
 

VẪN CÒN – Thơ Lê Kim Thượng

 
   


Vẫn Còn
 
1.
Em qua, một sớm bình minh
Áo tà tha thướt, tươi xinh phiêu bồng
Nắng tô thêm chút má hồng
Có con chim hót chờ mong bên thềm
Nắng nghiêng soi gót chân mềm
Bước chân lối cỏ, hương đêm nồng nàn
Nón em nghiêng đổ nắng vàng
Lời em tha thiết, nhẹ nhàng, si mê
Tôi em nặng một lời thề
Xanh tươi lời hẹn, tình quê ngập tràn
Tình yêu như ánh trăng vàng
Sáng soi muôn lối, dịu dàng chênh chao
Vườn yêu đỏ sắc hoa đào
Hương bay ngan ngát, dạt dào ngất ngây
Bàn tay ve vuốt tóc mây
Bướm ong, ong bướm tràn đầy, chứa chan…
 

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2025

SÁCH QUÝ NHẬN ĐƯỢC TRONG THÁNG 11.2025 – Ngô Hương Thủy

Nhà văn Ngô Hương Thủy viết về tập sách CHỮ NGHĨA VĂN CHƯƠNG của La Thụy.


* Đất khổ thường nẩy sinh người tài. Tiếp nối những Nguyễn Hữu Liêm, Lê Trạch Cam, Nguyễn Đức Tùng… Hôm nay chúng ta có thêm La Thụy, bút danh của Đoàn Minh Phú.
 
Từ quê nghèo Quảng Trị, sau Mùa hè đỏ lửa, cậu bé đi theo đoàn lưu dân vào Nam tìm đất sống. Ở vùng kinh tế mới La gi - Bình Thuận, vượt qua bao gian khổ, La Thụy đã vươn lên, trưởng thành với nghiệp nhà giáo - nhà văn - nhà nghiên cứu.
 

ĐỌC “THÁNG MƯỜI MỘT” THƠ HÙNG BÀNG LONG - Châu Thạch



Hôm nay là là 9/10 năm Ất Tỵ (2025), như vậy có thể xem như thời khắc chuyển mùa thu sang mùa đông đối với âm lịch
Đọc bài thơ “Tháng Mười Một” của Hùng Bàng Long ta thấy có một cảm xúc giao mùa thú vị. những hình ảnh trong thơ không có lá vàng rơi hay con nai vàng ngơ ngác. Nhưng cũng không quá băng giá của mùa đông, mà hiển hiện một thời khắc giao thoa se sắt cả không gian thời gian và lòng người. Bài thơ khiến lòng tôi cảm động và khiến tôi phải viết để thổ lộ những rung cảm cúả tâm hồn tôi.

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

LÂM SÀNG – Thơ Lê Kim Thượng


   


Lâm Sàng  
 
1.
Dòng sông con nước đầy vơi
Quê hương là một góc trời tươi xanh
Làng quê bình dị, an lành
Mà trong nỗi nhớ đã thành thân thương
Quê hương một nắng, hai sương
Nhớ người xa xứ, tha phương chưa vừa
Quê hương mưa nắng hai mùa
Đầy vơi con nước, bóng dừa tươi xanh
Nhà quê vách đất, mái tranh
Giàn bầu, giàn mướp, cây chanh, cây cà
Người quê tình nghĩa bao la
Hiền hòa, mộc mạc, đậm đà, sắt son
Chiều buồn ngồi ngắm hoàng hôn
Mà lòng sao cứ bồn chồn, xuyến xao
Mùi hương lúa chín ngọt ngào
Màu lam khói bếp quyện vào câu thơ…
 

LŨ – Thơ Lê Phước Sinh


   

Lũ Dồn Lũ Dồn tự Lũ Dồn...
Báo cáo lên trên Trời Lú nặng
Người Già chết cóng vì Vọt bẻ
Trăm ngôi nhà lút do... Đất sụt
Thủy Điện băng huyết đến Kỳ kinh...
 
"Lũ" chuyện "chút xíu" mà la lớn !!?
 
                                 Lê Phước Sinh

ĐÔNG SANG, MÙA ĐI – Thơ Tịnh Bình


   

 

ĐÔNG SANG...
 
Thu đi đâu rồi đấy ?
Bâng khuâng nhành heo may
Mùa đông chưa kịp đến
Sót vài tia nắng gầy
 
Gót thu như bịn rịn
Dạo quanh trên lá vàng
Quả thơm mùi thơ ấu
Hương nhãn chín dịu dàng
 
Gió vườn trưa trốn ngủ
Chim ngơ ngác gọi đàn
Ánh mắt ai sau lá
Tiễn nắng về mênh mang
 
Thu đi đâu mà vội
Bẽn lẽn khăn gió quàng
Sớm mai sương chợt thức
Chuốt từng sợi đông sang...
 

NHÂN NGÀY ĐẠI TƯỜNG NHÀ THƠ TUỆ SỸ (24/11/2925) ĐỌC ‘TỐNG BIỆT HÀNH” THƠ TUỆ SỸ - Châu Thạch




TỐNG BIỆT HÀNH
 
Một bước đường thôi nhưng núi cao
Trời ơi mây trắng đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn hết ân tình, nước lạnh sao?
 
Một bước đường xa, xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi
 
Cho hết đêm hè trông bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa
 
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa máu dạt lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu úa
Trên phím dương cầm, hay máu xanh
                                            Nh.Tr. 77
 
NHÂN NGÀY ĐẠI TƯỜNG NHÀ THƠ TUỆ SỸ (24/11/2925) ĐỌC ‘TỐNG BIỆT HÀNH” THƠ TUỆ SỸ
                                                                      Châu Thạch
 
“Hành” là một thể loại thơ không phổ thông lắm, nhưng nó từng giữ một vị trí đáng kể trong lịch sử thi ca Việt Nam. Một bài thơ ở thể “Hành” thường đề cập đến những sự việc với tâm trạng bức xúc. Nếu so sánh “Hành” với những thể thơ khác ở giai đoạn thơ mới (Thập niên 1930 đến nay) thì thể “Hành” không được sáng tác nhiều. Tuy thế dầu ít, “Hành” cũng có được ngôi vị trân trọng trong nền văn học giai đoạn nầy. Cụ thể là “Tống Biệt hành” của Thâm Tâm, “Hành Phương Nam” của Nguyễn Bính và một số bài thơ thể “Hành” ít nổi tiếng hơn.
 

Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2025

WUMAO 伍毛, DƯ LUẬN VIÊN CỦA TÀU - Nguyễn Văn Tuấn

 Wumao伍毛 là tiếng lóng để chỉ những “Mạ thủ”罵手
 Mạ : Mắng chửi như trong mạ lị, nhục mạ, lăng mạ
 Thủ : Tay, tay nghề như trong cao thủ, danh thủ
*
Tàu ngày xưa là nơi sản sanh ra những mạ thủ, thì Tàu ngày nay cũng có những đội quân mạ thủ, thuật ngữ tiếng Hoa hiện đại là Wumao伍毛,có âm Hán Việt là “ngũ mao” dùng để chỉ “dư luận viên:
 ngũ: đội ngũ
 mao (danh): lông; (động): nổi giận, phát cáu...

Như thế, Wumao 伍毛  hay “ngũ mao” là đội ngũ của nhửng kẻ chuyên nhục mạ đối phương để kích động làm cho đối phương nổi giận, phát cáu


Tôi mới học được một danh từ mới: mạ thủ. Một cách ngắn gọn, mạ thủ là một kẻ chuyên nghề chửi. (Giống như dư luận viên ngày nay). Lịch sử ra đời của mạ thủ vẫn còn mang tính thời sự ngày nay.

Theo tác giả Huy Phương (báo Người Việt), danh từ này xuất phát từ thời Hán Sở tranh hùng và Tam Quốc Chí bên Tàu. Thời đó, nhà cầm quyền huy động những người có lá phổi lớn, tiếng nói vang, và có cách chửi độc địa để làm ‘mạ thủ’. Mạ thủ chỉ có mộ việc đơn giản là chửi bới đối phương. Họ trong tư thế trần truồng, xông lên phía trước, sát cổng thành của đối phương, và tung ra những lời chửi bới tục tĩu và dơ bẩn nhứt nhắm vào đối phương. Mục đích là hạ nhục và khiêu khích đối phương bằng cách thoá mạ ông bà tổ tiên của đối phương, sao cho họ mở cửa thành để lính xông vào. Điều trớ trêu là mạ thủ là những người bị chết đầu tiên vì họ không có vũ khí khi xông trận. Họ có thể xem như là những con chốt thí cho bọn cầm quyền.

ĐẠI HỒNG THỦY 大洪水 – Ung Chu



- đại : to, lớn
- hồng : lũ, lụt (nước lớn gây ngập), chuyển nghĩa thành tính từ nghĩa là to lớn, dùng thông với chữ "hồng" 
- thuỷ : nước.

Lụt cũng được gọi là "hồng thuỷ" 洪水 / 鴻水 nghĩa đen là nước lớn. "Đại hồng thuỷ" 大洪水 nghĩa là lũ lụt lớn. Tiếng Nhật đọc là "dai-kō-zui" だいこうずい, tiếng Hàn đọc là "dae-hong-su" 대홍수.

Nhiều cộng đồng trên thế giới cùng có truyền thuyết về đại hồng thuỷ, kể về trận lụt cực lớn trong quá khứ xa xôi nhấn chìm khắp nơi. Dạng thảm hoạ trong truyền thuyết này của các cộng đồng lớn trên thế giới (vùng Lưỡng Hà, vùng Ấn Độ, vùng Trung Hoa, vùng Do Thái...) thường gắn với những đấng siêu nhiên.
                                                                                             Ung Chu

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2025

CHÙM THƠ NGẮN CỦA TỊNH BÌNH




1.
Cười tươi trước gió sen thanh
Hoa rơi cánh rụng lại thành đài gương
Bao phen dầu dãi mưa sương
Búp tơ e ấp khẽ vươn mặt hồ...
 
2.
Lá đâu tranh sắc cùng hoa
Âm thầm diệp lục hoan ca mặt trời
Dịu dàng che giọt nắng rơi
Điểm tô hoa mãi rạng ngời đẹp xinh...
 
3.
Một thời hoa bướm đã trôi xa
Ngây thơ mắt ngọc giọt sương ngà
Hồn nhiên cứ ngỡ trần là thật
Bất giác tỉnh rồi giấc mơ hoa...
 
4.
Này đây ngọn cỏ cành sương
Nhắc ta quán niệm vô thường phút giây
Dòng đời tan hợp bèo mây
Dụi con mắt thức giữa ngày chiêm bao...
 
                                         TỊNH BÌNH

LỤT NĂM NAY, HUẾ LỤT BỐN LẦN – Thơ Lê Phước Sinh

 
 

Xắn lên trên đầu gối,
con chim ngủ yên nghe
lông lá dù thấm nước
đừng trách chi ông trời.
 
Bờ kia tre nửa cụm
mái phên rã theo giòng
người than ơi ới ới...
như hát bội giữa đồi.
 
Lụt lên nhồi Lụt xuống
nước bạc tố dân tôi ...
 
LÊ PHƯỚC SINH

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2025

NỬA KIA – Thơ Lê Kim Thượng


   

1.
Nhớ ngày thưở ấy… “Ngày xưa…”
Chung trường, chung lớp… tuổi vừa biết yêu
Thương ngày nắng sớm, mưa chiều
Ngày thơ, ngày mộng, dáng Kiều lung linh
Trao nhau những nụ hôn tình
Nắng soi mặt nước in hình đôi ta
Tình yêu chắp cánh bay xa
Vòng tay ôm ấp, ngày qua, ngày ngày
Người yêu như thể người say
Men tình chuếnh choáng, ngất ngây miệt mài
Yêu người mới biết nhớ hoài
Yêu người mới biết ngày dài quạnh hiu
Trong vòng tay ấm hương yêu
Lời tình thủ thỉ, cho nhiều thiết tha
Hoàng hôn tắt nắng đường xa
Bước về không nỡ… ơi ta… ơi mình…

TIẾNG QUÊ VỌNG GỌI – Thơ Tịnh Bình


   

Biết tìm đâu vệt mây chiều cố xứ
Mắt hoàng hôn ầng ậng nước nhớ nhà
Ta xa lạ giữa bốn bề vội vã
Chợt thèm quê
Cỏ dại
Một lối về...
 
Nghe sông gọi lời phù sa ngọt lịm
Nước về đâu trăm sóng nhỏ lạc dòng
Đớp bóng mình cá lầm mê nguồn cội
Vỡ bóng rằm trăng òa khóc mặt sông
 
Thương bóng núi trầm mặc cùng lau lách
Những đàn bò mê mải gặm hoàng hôn
Nhòa dáng khói cánh đồng như thiếp ngủ
Tiếng mục đồng bảng lảng vọng chiều hôm
 
Nhói lòng không cỏ may ghim chân bước
Quê mình ơi man mác điệu ru hời
 
Bay về đâu cánh chim trời nặng nợ
Lả giọng mây chiều... Tiếng quê gọi mòn hơi...
 
                                                        Tịnh Bình

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2025

HOA MUỘI – Bùi Chí Vinh



Đối với tôi, ngoại xâm phương Bắc Trung Cộng là kẻ thù truyền kiếp nhưng phụ nữ của họ hoàn toàn ngược lại. Tôi từng công tác ở vùng Chợ Lớn giữa thập niên 80 nên không lạ lùng gì các mỹ nhân người Hoa. Họ sang trọng và kín đáo pha chút u uẩn về thân phận lưu lạc xứ người, họ làm tôi nhớ đến "em Dìn" trong truyện ngắn CHÂN TRỜI CŨ của nhà thơ Hồ Dzếnh, họ khiến tôi rung động sáng tác bài thơ HOA MUỘI đọc trong một đêm dạ tiệc ở nhà hàng Soái Kình Lâm, khi một nữ ca sĩ Hồng Kông hát bài CÁNH HỒNG TRUNG QUỐC và MÙA THU LÁ BAY. Hát hoàn toàn bằng tiếng Hoa huyền hoặc.

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2025

CHUYỆN TÌNH CỦA ĐÔI DANH CA TUẤN NGỌC, THÁI THẢO – Đàng Sa Long



Chuyện tình khó quên của danh ca Tuấn Ngọc bắt đầu khá muộn màng. Năm 1994, lúc 47 tuổi, danh ca Tuấn Ngọc mới nên giai ngẫu với ca sĩ Thái Thảo nhỏ hơn ông 14 tuổi. Và họ vừa có được một đám cưới ngọc trai đầm ấm.

Giọng hát của danh ca Tuấn Ngọc làm say mê hàng triệu khán giả khắp nơi. Những người khó tính nhất, khi nghe danh ca Tuấn Ngọc trình bày ca khúc trữ tình, cũng phải thừa nhận vị trí đáng kể của ông trong đời sống biểu diễn. Vây quanh danh ca Tuấn Ngọc có không ít giai nhân, nhưng “chuyện tình khó quên” của ông lại chỉ gắn bó một người phụ nữ duy nhất là ca sĩ Thái Thảo.

TỪ HÁN VIỆT, ÂM HÁN VIỆT - Tri thư đạt lễ 知書達禮



Trong tiến trình tiếp xúc văn hoá, nhiều yếu tố ngôn ngữ, đặc biệt là từ vựng tiếng Hán đã du nhập vào tiếng Việt. Những yếu tố vay mượn này được người Việt tiếp nhận, biến đổi và đồng hóa, qua thời gian dần hình thành nên hệ thống lớp từ có số lượng lớn là từ Hán Việt, được sử dụng rộng rãi và ổn định trong tiếng Việt hiện nay.
 
Có thể nói từ Hán Việt và từ vựng tiếng Hán hiện đại vẫn duy trì mối quan hệ họ hàng gần gũi, do cùng bắt nguồn từ một gốc chung trong lịch sử tiếng Hán. Song do sự khác biệt về lịch sử, văn hóa và lối tư duy của hai dân tộc qua thời gian nên giữa tiếng Hán, âm Hán Việt và từ Hán Việt tồn tại những khác biệt quan trọng. Cần phân biệt chúng như sau:

TÔI ĐỌC “CHỮ NGHĨA VĂN CHƯƠNG” CỦA LA THỤY- Nguyễn Văn Trị



Mình nhận được tác phẩm "Chữ Nghĩa Văn Chương" của nhà văn La Thụy (Đoàn Minh Phú) gửi tặng qua đường bưu điện, cùng lời nhờ chuyển tặng đến một vài thầy cô và bạn đồng môn.
Trước hết xin cám ơn tình cảm bạn dành cho mình và cũng có vài cảm nhận sau khi đọc (dù tuần lễ này khá bận rộn).
 
Về tác giả La Thụy
 
La Thụy là bút danh của Đoàn Minh Phú, cựu học sinh trường TH Nguyễn Hoàng Quảng Trị niên khoá 1968 -75, giáo viên về hưu tại La Gi, Bình Thuận (cũ).
Ngoài công việc giảng dạy, anh dành trọn đam mê cho văn chương, thể hiện qua vai trò thành viên Hội Văn học Nghệ thuật Bình Thuận và là đồng quản trị trang blog Văn Nghệ Quảng Trị (cùng anh Nguyễn Khắc Phước, cựu học sinh Nguyễn Hoàng khóa 64-71). Trang blog này là nơi giới thiệu những cây bút có gốc gác quê hương Quảng Trị và các tỉnh miền Trung, kho lưu trữ bài viết được chọn lọc từ năm 2008 đến nay.
 

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

XE ĐÒ VIỆT NAM TRÊN NƯỚC MỸ - Trần Vấn Lệ



Tháng Môt San José, hết mưa, hoa quỳ nở... Đó là một niềm nhớ cho ai từ đó đi!
 
Tôi xa San José cũng ba mươi năm đã.  Nhiều khi lòng nhớ quá mà làm sao lên xe?
 
Người mình đi xa quê... xe đò đem qua Mỹ!  Đường Mỹ đường thiên lý, xe bus có, chậm rì...
 
Lên xe đò thầm thì, ai thích gì cứ nói, không biết gì cứ hỏi, im lặng thì ngủ thôi!
 
Bốn trăm dặm... tuyệt vời, dọc đường hoa và cỏ, nhiều ngọn đồi nho nhỏ nối nhau thành núi cao... 
 
Những con bò trong rào, xe ào ào, mặc kệ.  Vài con suối nhỏ bé, vài con nai săm soi...
 
Tôi thích hoa trên đồi, hoa quỳ nở thưa thớt, tôi nhìn tưởng Đa Phước, tôi nhìn tưởng Trại Hầm...
 
Mỹ giống giống Việt Nam!  Núi xanh như Đà Lạt... mà đời tôi mất mát, thở dài, quên được không?
 
*
Xe đi ngang cánh đồng... Xe vào vài thị trấn.  Xe dừng một vài chặng... rồi tăng tốc chạy hoài!
 
Mười năm trước lai rai tôi đi vì công việc.  Mười năm sau thất nghiệp...Thôi thì... một bài thơ!
 
"Tiếng Bên Trời", bạn đọc chưa?  Một tập thơ rất cũ, trăm năm xưa, quá khứ, vẫn mới, như... chiêm bao!
 
"Mười năm xưa, mười năm sau,
một hình bóng cũ xóa màu thời gian...
Cầm như đã lỗi nhịp đàn,
Cố Nhân ôi bấy ngỡ ngàng Cố Nhân!" (*)
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ

(*) Tập thơ Hà Liên Tử, "Tiếng Bên Trời" xuất bản tại Sài Gòn thập niên 1950.

KHAI CĂN 開根 – Ung Chu, Hán-Việt Thông Dụng, Thuật ngữ Toán học

 

EXTRACT - KHAI CĂN
EXTRACTION - PHÉP KHAI CĂN

Phép khai căn là phép toán ngược lại với phép nâng lên luỹ thừa, hành động thực hiện phép khai căn để tìm căn gọi là "khai căn" 開根.
- khai : mở, xẻ, phân tách, phân li, như trong "li khai", "khai trừ", "extract" tiếng Anh nghĩa là phân tách, chiết xuất, trích li

- căn : gốc rễ, thuật ngữ toán học này trong các ngôn ngữ đều xuất phát từ nghĩa đen là gốc rễ, như "root" tiếng Anh, "racine" tiếng Pháp, "Wurzel" tiếng Đức... "Radical" tiếng Anh có gốc Latin "radix" nghĩa là gốc rễ. Tiếng Nhật đọc là "kon" こん, tiếng Hàn đọc là "geun" .

"Khai căn" 開根 là từ ta mượn tiếng Trung Quốc (giản thể: 开根). Khai căn bậc hai (ngược với bình phương) được gọi là "khai phương" 開方 (giản thể: 开方). Tiếng Trung Quốc gọi căn bậc hai (tiếng Anh: squareroot) là "bình phương căn" 平方根. "Bình phương" 平方 nghĩa đen là hình vuông phẳng, cũng như "square" tiếng Anh, diện tích hình vuông là bình phương độ dài cạnh.
                                                                                  
                                                                                  Ung Chu
                                                                        Hán-Việt Thông Dụng
                                                                       #Thuật_ngữ_Toán_học